1- Cỏ non xanh tận chân ttách / Cành lê trắng điểm một vài ba cành hoa. 2- Sống làm cho vk khắp tín đồ ta / Hại cụ thác xuống có tác dụng ma ko ck. 3- Người đâu gặp gỡ làm đưa ra / Trăm năm biết tất cả dulặng gì hay không. 4- Ngổn ngang trăm mối bên lòng / Nên câu tuyệt Trên bình diện phê phán hay lý luận văn học, có rất ít câu thơ trong tác phẩm của Nguyễn Du nói về thơ - điều ấy rõ - Nguyễn Du là nhà thơ, ông làm thơ, say đắm thơ, không mất thì giờ lý luận về thơ. Cho nên hai câu thơ cuối và đoạn thơ 1404 - 1466 nằm trong Truyện Kiều Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã viết: "Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng" Giải thích hai câu thơ trên và làm sáng tỏ thêm hai câu thơ đó vừa được VnDoc.com gửi tới bạn đọc. Nguyễn Công Trứ (1788 – 1858) là một nhà thơ kì dị cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam. Không có những ngôn từ mĩ miều và thanh thoát, thơ Nguyễn Công Trứ thể hiện trực tiếp các tư tưởng và thái độ với cuộc đời, với thời cuộc. Cũng trong chuyến đi, nhà thơ qua quê hương Nguyễn Di vào dịp kỉ niệm 200 năm năm sinh của thi hào. Những câu in nghiêng trong bài được tác giả trích từ Truyện Kiều. Bài thơ này được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006. Bạn đang xem: Câu thơ về nguyễn du Nhà thơ Huy Cận, quê Hà Tĩnh, đồng hương của Nguyễn Du. Ông nhiều năm làm cỗ trưởng, sản phẩm trưởng bộ Văn hóa, lại là bạn thâm trầm, uyên bác, quý trọng di sản văn hóa dân tộc, bắt buộc để tâm không ít đến Nguyễn Du. trong bài thơ chị em thúy kiều hãy + miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều + tác giả Nguyễn Du tập trung tả về nét nào của thuý Kiều? + điểm khác nhau giữa thuý Vân v BQpSH. VOH – Nhắc đến Nguyễn Du, người ta sẽ nhớ ngay để một tác phẩm kinh điển để đời của ông, đó là Truyện Kiều. Dưới đây là trọn bộ 3254 câu thơ Kiều mang đầy ý nghĩa và nhiều cung bậc cảm lục Kiều thăm mộ Đạm Tiên Câu 1-244 Kiều và Kim Trọng thề nguyền ước hẹn Câu 245-572 Kiều bán mình chuộc cha Câu 573-804 Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mã Giám Sinh Câu 805-1056 Kiều mắc lừa Sở Khanh Câu 1057-1274 Kiều gặp Thúc Sinh Câu 1275-1472 Kiều và Hoạn Thư Câu 1473-1704 Kiều gặp Từ Hải Câu 2029-2288 Kiều báo thù Câu 2289-2418 Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn Câu 2419-2738 Kim Trọng đi tìm Kiều Câu 2739-2972 Kiều – Kim Trọng đoàn tụ Câu 2973-3254 Có thể nói, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm nổi tiếng và được xếp vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam. Từ kết cấu câu chuyện cho đến cách tả cảnh, tả người của Nguyễn Du trong tác phẩm đều vô cùng khéo léo, uyển chuyển khiến cho thơ Kiều trở nên nhẹ nhàng, êm ái, thấm thía và dễ đi vào lòng người. Đại thi hào Nguyễn Du Đây là một tác phẩm kể lại của đời của một người con gái mang tên Thúy Kiều, xinh đẹp và tài năng nhưng lại bị cuộc đời vùi dập, nếm trải hết thảy mọi đau khổ, đắng cay, tủi nhục trong suốt 15 năm ròng. May thay, trải qua tất cả mọi sóng gió thì người con gái ấy đã được đoàn tụ với gia đình, sum họp với người xưa. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu kỹ hơn về nàng Thúy Kiều tài hoa bạc mệnh cũng như các nhân vật khác như Từ Hải, Kim Trọng, Hoạn Thư… những nhân vật đã tạo một truyện Kiều với những ẩn ý về triết lý nhân sinh sâu sắc, về các mối quan hệ xã hội, về cuộc đời, số phận con người… thông qua 3254 câu thơ Kiều dưới đây 1. Kiều thăm mộ Đạm Tiên Câu 1-244 244 câu thơ Kiều đầu tiên là phần giới thiệu về gia cảnh nhà Thúy Kiều và miêu tả cảnh ba chị em Thúy Kiều đi tảo mộ trong Tết Thanh Minh. Trên đường về, gặp nấm mồ vô chủ bên đường, khi biết đó là mộ của Đạm Tiên - một người con gái tài sắc nhưng phải làm nghề kỹ nữ và mất lúc còn rất trẻ. Thuý Kiều đã động lòng xót thương cho người con gái tài hoa mà ''bạc phận''. Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh. Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng. Có nhà viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung. Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo, mặn mà, So bề tài, sắc, lại là phần hơn. Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một, hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Thông minh vốn sẵn tư trời, Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân. Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh. Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Dập dìu tài tử, giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Sè sè nấm đất bên đàng, Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. Rằng Sao trong tiết thanh minh, Mà đây hương khói vắng tanh thế mà? Vương Quan mới dẫn gần xa Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. Kiếp hồng nhan có mong manh, Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. Có người khách ở viễn phương, Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi. Thuyền tình vừa ghé tới nơi, Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ. Buồng không lạnh ngắt như tờ, Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh. Khóc than khôn xiết sự tình, Khéo vô duyên ấy là mình với ta. Đã không duyên trước chăng mà, Thì chi chút ước gọi là duyên sau. Sắm xanh nếp tử xe châu, Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa. Trải bao thỏ lặn ác tà, Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm! Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa. Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Xem thêm Phũ phàng chi bấy hoá công, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha. Sống làm vợ khắp người ta, Khéo thay thác xuống làm ma không chồng. Nào người phượng chạ loan chung, Nào người tích lục tham hồng là ai? Đã không kẻ đoái người hoài, Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương. Gọi là gặp gỡ giữa đường, Họa là người dưới suối vàng biết cho. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to, Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra. Một vùng cỏ áy bóng tà, Gió hiu hiu thổi một vài bông lau. Rút trâm sẵn giắt mái đầu, Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần. Lại càng mê mẩn tâm thần Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra. Lại càng ủ dột nét hoa, Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài. Vân rằng Chị cũng nực cười, Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa. Rằng Hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu? Nỗi niềm tưởng đến mà đau, Thấy người nằm đó biết sau thế nào? Quan rằng Chị nói hay sao, Một lời là một vận vào khó nghe. Ở đây âm khí nặng nề, Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa. Kiều rằng Những đấng tài hoa, Thác là thể phách, còn là tinh anh, Dễ hay tình lại gặp tình, Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ. Một lời nói chửa kịp thưa, Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay. Ào ào đổ lộc rung cây, Ở trong dường có hương bay ít nhiều. Đè chừng ngọn gió lần theo, Dấu giày từng bước in rêu rành rành. Mắt nhìn ai nấy đều kinh, Nàng rằng Này thực tinh thành chẳng xa. Hữu tình ta lại gặp ta, Chớ nề u hiển mới là chị em. Đã lòng hiển hiện cho xem, Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời. Lòng thơ lai láng bồi hồi, Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. Dùng dằng nửa ở nửa về, Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần. Trông chừng thấy một văn nhân, Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. Đề huề lưng túi gió trăng, Sau chân theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu giòn, Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời. Nẻo xa mới tỏ mặt người, Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình. Hài văn lần bước dặm xanh, Một vùng như thể cây quỳnh cành dao. Chàng Vương quen mặt ra chào, Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa. Nguyên người quanh quất đâu xa, Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh. Nền phú hậu, bậc tài danh, Văn chương nết đất, thông minh tính trời. Phong tư tài mạo tót vời, Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. Chung quanh vẫn đất nước nhà, Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân. Vẫn nghe thơm nức hương lân, Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều. Nước non cách mấy buồng thêu, Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng. May thay giải cấu tương phùng, Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa. Bóng hồng nhác thấy nẻo xa, Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê. Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. Bóng tà như giục cơn buồn, Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo. Dưới cầu nước chảy trong veo, Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Kiều từ trở gót trướng hoa, Mặt trời gác núi chiêng đà thu không. Mảnh trăng chênh chếch dòm song, Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân. Hải đường lả ngọn đông lân, Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà. Một mình lặng ngắm bóng nga, Rộn đường gần với nỗi xa bời bời Người mà đến thế thì thôi, Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không? Ngổn ngang trăm mối bên lòng, Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành, Tựa nương bên triện một mình thiu thiu. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân. Sương in mặt, tuyết pha thân, Sen vàng lãng đãng như gần như xa. Chào mừng đón hỏi dò la Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây? Thưa rằng Thanh khí xưa nay, Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên. Hàn gia ở mé tây thiên, Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu. Mấy lòng hạ cố đến nhau, Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. Vâng trình hội chủ xem tường, Mà sao trong sổ đoạn trường có tên. Âu đành quả kiếp nhân duyên, Cùng người một hội, một thuyền đâu xa! Này mười bài mới mới ra, Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời. Kiều vâng lĩnh ý đề bài, Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm. Xem thơ nức nở khen thầm Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường Ví đem vào tập Đoạn Trường Thì treo giải nhất chi nhường cho ai. Thềm hoa khách đã trở hài, Nàng còn cầm lại một hai tự tình. Gió đâu xịch bức mành mành, Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao. Trông theo nào thấy đâu nào Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây. Một mình lưỡng lự canh chầy, Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Hoa trôi bèo dạt đã đành, Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi! Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. Giọng Kiều rền rĩ trướng loan, Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi Cơn cớ gì? Cớ sao trằn trọc canh khuya, Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa? Thưa rằng Chút phận ngây thơ, Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền. Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên, Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao. Đoạn trường là số thế nào, Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia. Cứ trong mộng triệu mà suy, Phận con thôi có ra gì mai sau! Dạy rằng Mộng triệu cớ đâu, Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao. Vâng lời khuyên giải thấp cao, Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương. Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng, Nách tường bông liễu bay ngang trước mành. Hiên tà gác bóng chênh chênh, Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình. Cho hay là thói hữu tình, Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong. 2. Kiều và Kim Trọng thề nguyền ước hẹn Câu 245-572 327 câu thơ Kiều tiếp theo kể lại việc sau khi Thúy Kiều, Thúy Vân gặp Kim Trọng – người bạn đồng môn với Vương Quan em Thúy Kiều thì một mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng bắt đầu chớm nở. Chàng Kim từ lại thư song, Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây. Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dồn lại một ngày dài ghê. Mây Tần khóa kín song the, Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao. Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng. Buồng văn hơi giá như đồng, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. Mành Tương phất phất gió đàn, Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. Vì chăng duyên nợ ba sinh, Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi. Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người, Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. Một vùng cỏ mọc xanh rì, Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu! Gió chiều như gợi cơn sầu, Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang. Thâm nghiêm kín cổng cao tường, Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh. Lơ thơ tơ liễu buông mành, Con oanh học nói trên cành mỉa mai. Mấy lần cửa đóng then cài, Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu? Tần ngần đứng suốt giờ lâu, Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà. Là nhà Ngô Việt thương gia, Buồng không để đó người xa chưa về. Lấy điều du học hỏi thuê, Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang. Có cây, có đá sẵn sàng, Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai. Mừng thầm chốn ấy chữ bài, Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây. Song hồ nửa khép cánh mây, Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông. Tấc gang đồng tỏa nguyên phong, Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra. Nhẫn từ quán khách lân la, Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai. Cách tường phải buổi êm trời, Dưới đào dường có bóng người thướt tha. Buông cầm xốc áo vội ra, Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh. Lần theo tường gấm dạo quanh, Trên đào nhác thấy một cành kim thoa. Giơ tay với lấy về nhà Này trong khuê các đâu mà đến đây? Ngẫm âu người ấy báu này, Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm! Liền tay ngắm nghía biếng nằm, Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai. Xem thêm Tan sương đã thấy bóng người, Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. Sinh đà có ý đợi chờ, Thoa này bắt được hư không, Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về? Tiếng Kiều nghe lọt bên kia Ơn lòng quân tử sá gì của rơi. Chiếc thoa nào của mấy mươi, Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao! Sinh rằng Lân lý ra vào, Gần đây nào phải người nào xa xôi. Được rày nhờ chút thơm rơi, Kể đà thiểu não lòng người bấy nay! Bấy lâu mới được một ngày, Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là. Vội về thêm lấy của nhà, Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông. Bậc mây rón bước ngọn tường, Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe? Sượng sùng giữ ý rụt rè, Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu. Rằng Từ ngẫu nhĩ gặp nhau. Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn. Xương mai tính đã rũ mòn, Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay! Tháng tròn như gởi cung mây, Trần trần một phận ấp cây đã liều! Tiện đây xin một hai điều, Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng? Ngần ngừ nàng mới thưa rằng Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong, Dù khi lá thắm chỉ hồng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. Nặng lò xót liễu vì hoa, Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa! Sinh rằng Rày gió mai mưa, Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi! Dù chăng xét tấm tình si Thiệt đây mà có ích gì đến ai? Chút chi gắn bó một hai, Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh. Khuôn thiêng dù phụ tấc thành, Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời. Lượng xuân dù quyết hẹp hòi, Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru! Lặng nghe lời nói như ru, Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng. Rằng Trong buổi mới lạ lùng, Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang! Đã lòng quân tử đa mang, Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung. Được lời như cởi tấm lòng, Giờ kim hoàn với khăn hồng trao tay. Rằng Trăm năm cũng từ đây, Của tin gọi một chút này làm ghi. Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ, Với cành thoa ấy tức thì đổi trao. Một lời vừa gắn tất giao, Mái sau dường có xôn xao tiếng người. Vội vàng lá rụng hoa rơi, Chàng về viện sách nàng dời lầu trang. Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Sông Tương một dải nông sờ, Bên trông đầu nọ bên chờ suối kia. Một tường tuyết trở sương che. Tin xuân đâu dễ đi về cho năng. Lần lần ngày gió đêm trăng, Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua. Ngày vừa sinh nhật ngoại gia, Trên hai đường dưới nữa là hai em. Tưng bừng sắm sửa áo xiêm, Biện dâng một lễ xa đem tấc thành. Nhà lan thanh vắng một mình, Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay. Thời trân thức thức sẵn bày, Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường. Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng, Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông Trách lòng hờ hững với lòng, Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu. Những là đắp nhớ đổi sầu, Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm. Nàng rằng Gió bắt mưa cầm, Đã cam tệ với tri âm bấy chầy. Vắng nhà được buổi hôm nay, Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng! Lần theo núi giả đi vòng, Cuối tường dường có nẻo thông mới rào. Xắn tay mở khóa động đào, Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-thai. Mặt nhìn mặt càng thêm tươi, Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên. Sánh vai về chốn thư hiên, Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông. Trên yên bút giá thi đồng, Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên. Phong sương được vẻ thiên nhiên, Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi. Sinh rằng Phác họa vừa rồi, Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa. Tay tiên gió táp mưa sa, Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu. Khen Tài nhả ngọc phun châu, Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này! Kiếp tu xưa ví chưa dày, Phúc nào nhắc được giá này cho ngang! Nàng rằng Trộm liếc dung quang, Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn. Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay? Nhớ từ năm hãy thơ ngây, Có người tướng sĩ đoán ngay một lời Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. Trông người lại ngẫm đến ta, Một dầy một mỏng biết là có nên? Sinh rằng Giải cấu là duyên, Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. Ví dù giải kết đến điều, Thì đem vàng đá mà liều với thân! Đủ điều trung khúc ân cần, Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng. Ngày vui ngắn chẳng đầy gang, Trông ra ác đã ngậm gương non đoài. Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai, Giã chàng nàng mới kíp dời song sa. Đến nhà vừa thấy tin nhà, Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về. Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Nhặt thưa gương giọi đầu cành, Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu. Sinh vừa tựa án thiu thiu, Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê. Tiếng sen sẽ động giấc hòe, Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần, Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. Nàng rằng Khoảng vắng đêm trường, Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa. Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Vội mừng làm lễ rước vào, Đài sen nối sáp song đào thêm hương. Tiên thề cùng thảo một chương, Tóc mây một món dao vàng chia đôi. Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai mặt một lời song song. Tóc tơ căn vặn tấc lòng, Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. Chén hà sánh giọng quỳnh tương, Dải là hương lộn bình gương bóng lồng. Sinh rằng Gió mát trăng trong, Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam. Chày sương chưa nện cầu Lam, Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng? Nàng rằng Hồng diệp xích thằng, Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri. Đừng điều nguyệt nọ hoa kia. Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai. Rằng Nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ. Thưa rằng Tiện kỹ sá chi, Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng. Hiên sau treo sẵn cầm trăng, Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày. Nàng rằng Nghề mọn riêng tay, Làm chi cho bận lòng này lắm thân! So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương. Khúc đâu Hán Sở chiến trường, Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Khúc đâu Tư mã Phượng cầu, Nghe ra như oán như sầu phải chăng! Kê Khang này khúc Quảng lăng, Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân. Qua quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia. Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như tiếng suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu. Khi tựa gối khi cúi đầu, Khi vò chín khúc khi chau đôi mày. Rằng Hay thì thật là hay, Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! Lựa chi những bậc tiêu tao, Dột lòng mình cũng nao nao lòng người? Rằng Quen mất nết đi rồi, Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao! Lời vàng âm lĩnh ý cao, Họa dần dần bớt chút nào được không. Hoa hương càng tỏ thức hồng, Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu. Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Thưa rằng đừng lấy làm chơi, Dẽ cho thưa hết một lời đã nao! Vẻ chi một đóa yêu đào, Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh. Đã cho vào bậc bố kinh, Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu Ra tuồng trên Bộc trong dâu, Thì con người ấy ai cầu làm chi! Phải điều ăn xổi ở thì, Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày! Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay, Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương. Mây mưa đánh đổ đá vàng, Quá chiều nên đã chán chường yến anh. Trong khi chắp cánh liền cành, Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên. Mái tây để lạnh hương nguyền, Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng. Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai? Vội chi liễu ép hoa nài, Còn thân ắt lại đền bồi có khi! Thấy lời đoan chính dễ nghe, Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân. Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân, Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào. Nàng thì vội trở buồng thêu, Sinh thì dạo gót sân đào bước ra. Cửa sài vừa ngỏ then hoa, Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang. Đem tin thúc phụ từ đường, Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề. Liêu dương cách trở sơn khê, Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang. Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng, Băng mình lẻn trước đài trang tự tình. Gót đầu mọi nỗi đinh ninh, Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi Sự đâu chưa kịp đôi hồi, Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ, Trăng thề còn đó trơ trơ, Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Ngoài nghìn dặm chốc ba đông, Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy! Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời. Tai nghe ruột rối bời bời, Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau Ông tơ ghét bỏ chi nhau, Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi! Cùng nhau trót đã nặng lời, Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ! Quản bao tháng đợi năm chờ, Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm. Đã nguyền hai chữ đồng tâm, Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Còn non còn nước còn dài, Còn về còn nhớ đến người hôm nay! Dùng dằng chưa nỡ rời tay, Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà. Ngại ngùng một bước một xa, Một lời trân trọng châu sa mấy hàng. Buộc yên quảy gánh vội vàng, Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai. Buồn trông phong cảnh quê người, Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa. Não người cữ gió tuần mưa, Một ngày nặng gánh tương tư một ngày. Nàng còn đứng tựa hiên tây, Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ. Trông chừng khói ngất song thưa, Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng. 3. Kiều bán mình chuộc cha Câu 573-804 Sau khi trao tín vật đính ước, thì 231 câu thơ tiếp theo trong Truyện Kiều kể về việc gia đình Thúy Kiều gặp oan và Kiều phải bán mình để chuộc cha. Tần ngần dạo gót lầu trang, Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về, Hàn huyên chưa kịp giãi dề, Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao. Người nách thước, kẻ tay đao; Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi. Già giang một lão một trai, Một dây vô lại buộc hai thâm tình. Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời khung dệt, tan tành gói may. Đồ tế nhuyễn, của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. Điều đâu bay buộc ai làm? Này ai dan dậm, giật giàm bỗng dưng? Hỏi ra sau mới biết rằng Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ. Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ, Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây. Hạ từ van lạy suốt ngày, Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn. Rường cao rút ngược dây oan, Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người. Mặt trông đau đớn rụng rời, Oan này còn một kêu trời, nhưng xa. Một ngày lạ thói sai nha, Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. Sao cho cốt nhục vẹn tuyền, Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao? Duyên hội ngộ, đức cù lao, Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn? Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Quyết tình nàng mới hạ tình Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha! Họ Chung có kẻ lại già, Cũng trong nha dịch lại là từ tâm. Thấy nàng hiếu trọng tình thâm, Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay. Tính bài lót đó luồn đây, Có ba trăm lạng việc này mới xuôi. Hãy về tạm phó giam ngoài, Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày. Thương tình con trẻ thơ ngây, Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ! Đau lòng tử biệt sinh ly, Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên! Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. Xem thêm Sự lòng ngỏ với băng nhân, Tin sương đồn đại xa gần xôn xao. Gần miền có một mụ nào, Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh. Hỏi tên rằng Mã Giám sinh. Hỏi quê, rằng Huyện Lâm Thanh cũng gần. Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Trước thầy sau tớ lao xao Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang. Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra. Nỗi mình thêm tức nỗi nhà, Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng! Ngại ngùng giợn gió e sương, Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày. Mối càng vén tóc bắt tay, Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ. Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu. Rằng Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường? Mối rằng đáng giá nghìn vàng, Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài. Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Một lời thuyền đã êm dằm Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi. Định ngày nạp thái vu qui, Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong! Một lời cậy với Chung công, Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà. Thương tình con trẻ cha già, Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu Nuôi con những ước về sau, Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. Trời làm chi cực bấy trời, Này ai vu thác cho người hợp tan! Búa rìu bao quản thân tàn, Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già. Một lần sau trước cũng là, Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau! Theo lời càng chảy dòng châu, Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi. Vội vàng kẻ giữ người coi, Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can Vẻ chi một mảnh hồng nhan, Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành. Dâng thư đã thẹn nàng Oanh, Lại thua ả Lý bán mình hay sao? Cỗi xuân tuổi hạc càng cao, Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành. Lòng tơ dù chẳng dứt tình, Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non. Thà rằng liều một thân con, Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây. Phận sao đành vậy cũng vầy, Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh. Cũng đừng tính quẩn lo quanh, Tan nhà là một thiệt mình là hai. Phải lời ông cũng êm tai, Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang. Mái ngoài họ Mã vừa sang, Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao. Trăng già độc địa làm sao? Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên. Trong tay đã sẵn đồng tiền, Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì! Họ Chung ra sức giúp vì, Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong. Việc nhà đã tạm thong dong, Tinh kỳ giục giã đã mong độ về. Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu. Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời! Công trình kể biết mấy mươi. Vì ta khăng khít, cho người dở dang. Thề hoa chưa ráo chén vàng, Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa. Trời Liêu non nước bao xa. Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi. Biết bao duyên nợ thề bồi. Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì. Tái sinh chưa dứt hương thề. Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. Nợ tình chưa trả cho ai, Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan. Nỗi riêng riêng những bàng hoàng, Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn. Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân, Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han Cơ trời dâu bể đa đoan, Một nhà để chị riêng oan một mình, Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh? Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây? Rằng Lòng đương thổn thức đầy, Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong. Hở môi ra cũng thẹn thùng, Để lòng thì phụ tấm lòng với ai. Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Loan giao chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai! Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Chiếc thoa với bức tờ mây, Duyên này thì giữ vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Mai sao dầu có bao giờ. Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai; Dạ đài cách mặt khuất lời, Rẩy xin chén nước cho người thác oan. Bây giờ trâm gẫy bình tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. Trăm nghìn gửi lại tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Cạn lời hồn ngất máu say, Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng. Xuân Huyên chợt tỉnh giấc nồng, Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài. Kẻ thang người thuốc bời bời, Mới dằn cơn vựng, chưa phai giọt hồng. Hỏi Sao ra sự lạ lùng? Kiều càng nức nở mở không ra lời. Nỗi nàng Vân mới rỉ tai, Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây.. Này cha làm lỗi duyên mày, Thôi thì nỗi ấy sau này đã em. Vì ai rụng cải rơi kim, Để con bèo nổi mây chìm vì ai. Lời con dặn lại một hai, Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng. Lậy thôi, nàng lại thưa chiềng, Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi. Sá chi thân phận tôi đòi, Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu. Xiết bao kể nỗi thảm sầu! Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi. Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, Quản huyền đâu đã giục người sinh ly. Đau lòng kẻ ở người đi, Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm. Trời hôm mây kéo tối rầm, Rầu rầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương. Rước nàng về đến trú phường, Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong. Ngập ngừng thẹn lục e hồng, Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen. Phẩm tiên rơi đến tay hèn, Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai Biết thân đến bước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. Vì ai ngăn đón gió đông, Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi. Trùng phùng dầu họa có khi, Thân này thôi có còn gì mà mong. Đã sinh ra số long đong, Còn mang lấy kiếp má hồng được sao? Trên yên sẵn có con dao, Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn Phòng khi nước đã đến chân, Dao này thì liệu với thân sau này. Đêm thu một khắc một chầy, Bâng khuâng như tỉnh như say một mình. 4. Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mã Giám Sinh Câu 805-1056 251 câu thơ Kiều tiếp theo nối tiếp câu chuyện sau khi bán mình chuộc cha, Kiều gặp Mã Giám sinh và bị lừa bán vào lầu xanh. Tại đây, nàng bị Tú Bà ép tiếp khách, nhưng nàng chống cự. Sau đó nàng được đưa đến ở Lầu Ngưng Bích. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh, Vẫn là một đứa phong tình đã quen. Quá chơi lại gặp hồi đen, Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa. Lầu xanh có mụ Tú Bà, Làng chơi đã trở về già hết duyên. Tình cờ chẳng hẹn mà nên, Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường. Chung lưng mở một ngôi hàng, Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề. Dạo tìm khắp chợ thì quê, Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi. Rủi may âu cũng tại trời, Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên. Xót nàng chút phận thuyền quyên, Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn. Mẹo lừa đã mắc vào khuôn, Sính nghi rẻ giá nghênh hôn sẵn ngày. Mừng thầm Cờ đã đến tay! Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng. Đã nên quốc sắc thiên hương, Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa. Về đây nước trước bẻ hoa, Vương tôn quý khách ắt là đua nhau. Hẳn ba trăm lạng kém đâu, Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời, Miếng ngon kề đến tận nơi, Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham. Đào tiên đã bén tay phàm, Thì vin cành quít cho cam sự đời! Dưới trần mấy mặt làng chơi, Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa. Nước vỏ lựu máu mào gà, Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên. Mập mờ đánh lận con đen, Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? Mụ già hoặc có điều gì, Liều công mất một buổi quỳ mà thôi. Vả đây đường xá xa xôi, Mà ta bất động nữa người sinh nghi. Tiếc thay một đóa trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về. Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương. Đêm xuân một giấc mơ màng, Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ. Giọt riêng tầm tã tuôn mưa, Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình Tuồng chi là giống hôi tanh, Thân nghìn vàng để ô danh má hồng. Thôi còn chi nữa mà mong? Đời người thôi thế là xong một đời. Giận duyên tủi phận bời bời, Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh. Nghĩ đi nghĩ lại một mình Một mình thì chớ hai tình thì sao? Sao dầu sinh sự thế nào, Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân. Nỗi mình âu cũng giãn dần, Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi. Những là đo đắn ngược xuôi, Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường. Xem thêm Lầu mai vừa rúc còi sương, Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi. Đoạn trường thay lúc phân kỳ! Vó câu khấp khểnh bóng xe gập ghềnh. Bề ngoài mười dặm trường đình, Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo. Ngoài thì chủ khách dập dìu, Một nhà huyên với một Kiều ở trong. Nhìn càng lã chã giọt hồng, Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao Hổ sinh ra phận thơ đào, Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong? Lỡ làng nước đục bụi trong, Trăm năm để một tấm lòng từ đây. Xem gương trong bấy nhiêu ngày, Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già! Khi về bỏ vắng trong nhà, Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng. Khi ăn khi nói lỡ làng, Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh. Khác màu kẻ quý người thanh, Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn. Thôi con còn nói chi con? Sống nhờ đất khách thác chôn quê người! Vương bà nghe bấy nhiêu lời, Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên. Vài tuần chưa cạn chén khuyên. Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe. Xót con lòng nặng trì trì, Trước yên ông đã nằn nì thấp cao Chút thân yếu liễu tơ đào, Rớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi. Từ đây góc bể bên trời, Nắng mưa thui thủi quê người một thân. Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân, Tuyết sương che chở cho thân cát đằng. Cạn lời khách mới thưa rằng Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao. Mai sau dầu đến thế nào, Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỉ thần! Đùng đùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay. Trông vời gạt lệ chia tay, Góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm. Nàng thì dặm khách xa xăm, Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây. Vi lô san sát hơi may, Một trời thu để riêng ai một người. Dặm khuya ngất tạnh mù khơi, Thấy trăng mà thẹn những lời non sông. Rừng thu từng biếc xen hồng, Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. Những là lạ nước lạ non, Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi. Xe châu dừng bánh cửa ngoài, Rèm trong đã thấy một người bước ra. Thoắt trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao! Trước xe lơi lả han chào, Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi. Bên thì mấy ả mày ngài, Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi. Giữa thì hương án hẳn hoi, Trên treo một tượng trắng đôi lông mày. Lầu xanh quen lối xưa nay, Nghề này thì lấy ông này tiên sư, Hương hôm hoa sớm phụng thờ. Cô nào xấu vía có thưa mối hàng, Cởi xiêm lột áo sỗ sàng, Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm. Đổi hoa lót xuống chiếu nằm, Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi! Kiều còn ngơ ngẩn biết gì, Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay Cửa hàng buôn bán cho may, Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu. Muôn nghìn người thấy cũng yêu, Xôn xao oanh yến rập rìu trúc mai. Tin nhạn vẩn lá thư bài, Đưa người cửa trước rước người cửa sau. Lạ tai nghe chửa biết đâu, Xem tình ra cũng những màu dở dang. Lễ xong hương hỏa gia đường, Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay. Dạy rằng Con lạy mẹ đây, Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia. Nàng rằng Phải bước lưu ly, Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh. Điều đâu lấy yến làm oanh, Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì? Đủ điều nạp thái vu qui, Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi. Giờ ra thay mặt đổi ngôi, Dám xin gửi lại một lời cho minh. Mụ nghe nàng nói hay tình, Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên Này này sự đã quả nhiên, Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi. Bảo rằng đi dạo lấy người, Đem về rước khách kiếm lời mà ăn. Tuồng vô nghĩa ở bất nhân, Buồn mình trước đã tần mần thử chơi. Màu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma! Con kia đã bán cho ta, Nhập ra phải cứ phép nhà tao đây. Lão kia có giở bài bây, Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe. Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao? Phải làm cho biết phép tao! Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay. Nàng rằng Trời thẳm đất dày! Thân này đã bỏ những ngày ra đi. Thôi thì thôi có tiếc gì! Sẵn dao tay áo tức thì giở ra. Sợ gan nát ngọc liều hoa! Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay. Thương ôi tài sắc bậc này, Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần. Nỗi oan vỡ lở xa gần, Trong nhà người chật một lần như nêm. Nàng thì bằn bặt giấc tiên, Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay. Vực nàng vào chốn hiên tây, Cắt người coi sóc chạy thầy thuốc thang. Nào hay chưa hết trần duyên, Trong mê dường đã đứng bên một nàng. Rỉ rằng Nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao? Số còn nặng nợ má đào, Người dầu muốn quyết trời nào đã cho. Hãy xin hết kiếp liễu bồ, Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau. Thuốc thang suốt một ngày thâu, Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan. Tú bà chực sẵn bên màn, Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần Một người dễ có mấy thân! Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài. Cũng là lỡ một lầm hai, Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây! Lỡ chưn trót đã vào đây, Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non. Người còn thì của hãy còn, Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà. Làm chi tội báo oán gia, Thiệt mình mà hại đến ta hay gì? Kề tai mấy mỗi nằn nì, Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi. Vả suy thần mộng mấy lời, Túc nhân âu cũng có trời ở trong. Kiếp này nợ trả chưa xong, Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau! Lặng nghe, thấm thía gót đầu, Thưa rằng Ai có muốn đâu thế này? Được như lời, thế là may, Hẳn rằng mai có như rày cho chăng! Sợ khi ong bướm đãi đằng, Đến điều sống đục, sao bằng thác trong! Mụ rằng Con hãy thong dong, Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi! Mai sau ở chẳng như lời, Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi. Thấy lời quyết đoán hẳn hoi, Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần. Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm? Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác, biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị Chung quanh những nước non người, Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu. 5. Kiều mắc lừa Sở Khanh Câu 1057-1274 Ở 217 câu thơ Kiều tiếp theo trong tập thơ Truyện Kiều - Nguyễn Du là câu chuyện kể về Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích gặp được Sở Khanh. Vì ngây thơ nên Thúy Kiều tiếp tục bị tên Sở Khanh lừa đi “tiếp khách”. Ngậm ngùi rủ bước rèm châu, Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần. Một chàng vừa trạc thanh xuân, Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng. Nghĩ rằng cũng mạch thư hương, Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh. Bóng Nga thấp thoáng dưới mành, Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai. Than ôi! sắc nước hương trời, Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây? Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa? Tức gan riêng giận trời già, Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng? Thuyền quyên ví biết anh hùng, Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi! Song thu đã khép cánh ngoài, Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình, Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ. Những là lần lữa nắng mưa, Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi? Đánh liều nhắn một hai lời, Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân. Mảnh tiên kể hết xa gần, Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài. Tan sương vừa rạng ngày mai, Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang. Trời tây lãng đãng bóng vàng, Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi. Mở xem một bức tiên mai, Rành rành tích việt có hai chữ đề. Lấy trong ý tứ mà suy Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng? Chim hôm thoi thót về rừng, Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành. Tường đông lay động bóng cành, Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào. Sượng sùng đánh dạn ra chào, Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần. Rằng Tôi bèo bọt chút thân, Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh. Dám nhờ cốt nhục tử sinh, Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau! Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng! Nàng đà biết đến ta chăng, Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi! Nàng rằng Muôn sự ơn người, Thế nào xin quyết một bài cho xong. Rằng Ta có ngựa truy phong, Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi. Thừa cơ lẻn bước ra đi, Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn. Dù khi gió kép, mưa đơn, Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì! Nghe lời nàng đã sinh nghi, Song đà quá đỗi, quản gì được thân. Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu! Xem thêm Cùng nhau lẻn bước xuống lầu, Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn. Đêm thâu khắc lậu canh tàn, Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. Lối mòn cỏ nhợt mù sương, Lòng quê đi một bước đường, một đau. Tiếng gà xao xác gáy mau, Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng. Nàng càng thổn thức gan vàng, Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào! Một mình khôn biết làm sao, Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng. Hóa nhi thật có nỡ lòng, Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau! Một đoàn đổ đến trước sau, Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời. Tú bà tốc thẳng đến nơi, Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà. Hung hăng chẳng nói chẳng tra, Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời. Thịt da ai cũng là người, Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau. Hết lời thú phục, khẩn cầu, Uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa. Rằng Tôi chút phận đàn bà, Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây. Bây giờ sống chết ở tay, Thân này đã đến thế này thì thôi! Nhưng tôi có sá chi tôi, Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu? Thân lươn bao quản lấm đầu, Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa! Được lời mụ mới tùy cơ, Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu. Bày vai có ả Mã Kiều, Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan. Mụ càng kể nhặt, kể khoan, Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha. Vực nàng vào nghỉ trong nhà, Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời Thôi đà mắc lận thì thôi! Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh? Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh, Một tay chôn biết mấy cành phù dung! Đà đao lập sẵn chước dùng, Lạ gì một cốt một đồng xưa nay! Có ba mươi lạng trao tay, Không dưng chi có chuyện này, trò kia! Rồi ra trở mặt tức thì, Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời! Nàng rằng Thề thốt nặng lời, Có đâu mà lại ra người hiểm sâu! Còn đương suy trước, nghĩ sau, Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào. Sở Khanh lên tiếng rêu rao Rằng nghe mới có con nào ở đây. Phao cho quyến gió rủ mây, Hãy xem có biết mặt này là ai Nàng rằng Thôi thế thì thôi! Rằng không, thì cũng vâng lời là không! Sở Khanh quát mắng đùng đùng, Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay, Nàng rằng Trời nhé có hay! Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai? Đem người giẩy xuống giếng khơi, Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay! Còn tiên tích việt ở tay, Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai? Lời ngay, đông mặt trong ngoài, Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương! Phụ tình án đã rõ ràng, Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui. Buồng riêng, riêng những sụt sùi Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân. Tiếc thay trong giá trắng ngần, Đến phong trần, cũng phong trần như ai! Tẻ vui cũng một kiếp người, Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru! Kiếp xưa đã vụng đường tu, Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi! Dù sao bình đã vỡ rồi, Lấy thân mà trả nợ đời cho xong! Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong, Tú bà ghé lại thong dong dặn dò Nghề chơi cũng lắm công phu, Làng chơi ta phải biết cho đủ điu. Nàng rằng Mưa gió dập dìu, Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi! Mụ rằng Ai cũng như ai, Người ta ai mất tiền hoài đến đây? Ở trong còn lắm điều hay, Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung. Này con thuộc lấy nằm lòng, Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. Chơi cho liễu chán, hoa chê, Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời. Khi khóe hạnh, khi nét ngài, Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa. Đều là nghề nghiệp trong nhà, Đủ ngần ấy nết, mới là người soi. Gót đầu vâng dạy mấy lời, Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng. Những nghe nói, đã thẹn thùng, Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe! Xót mình cửa các, buồng khuê, Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay! Khéo là mặt dạn, mày dày, Kiếp người đã đến thế này thì thôi! Thương thay thân phận lạc loài, Dẫu sao cũng ở tay người biết sao? Lầu xanh, mới rủ trướng đào, Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người. Biết bao bướm lả, ong lơi, Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm. Dập dìu lá gió, cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường? Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân? Mặc người mưa Sở, mây Tần, Những mình nào biết có xuân là gì! Đôi phen gió tựa, hoa kề, Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu. Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! Đòi phen nét vẽ, câu thơ, Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa, Vui là vui gượng kẻo mà, Ai tri âm đó, mặn mà với ai? Thờ ơ gió trúc, mưa mai, Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân. Ôm lòng đòi đoạn xa gần, Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau! Nhớ ơn chín chữ cao sâu, Một ngày một ngả bóng dâu tà tà. Dặm ngàn, nước thẳm, non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Sân hòe đôi chút thơ ngây Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình? Nhớ lời nguyện ước ba sinh, Xa xôi ai có thấu tình chăng ai? Khi về hỏi liễu Chương đài, Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. Tình sâu mong trả nghĩa dày, Hoa kia đã chắp cành này cho chưa? Mối tình đòi đoạn vò tơ, Giấc hương quan luống lần mơ canh dài. Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng. Lần lần thỏ bạc ác vàng, Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn! Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân! Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi! 6. Kiều gặp Thúc Sinh Câu 1275-1472 197 câu thơ này này kể về việc Thúy Kiều gặp Thúc Sinh – một người đàn ông đã có vợ nhưng lại có thói phong lưu đa tình. Thúc Sinh chuộc thân cho Kiều và đón nàng về làm vợ lẽ, thế nhưng hạnh phúc và yên bình chưa được bao lâu, Kiều lại gặp phải sóng gió vì Hoạn Thư, người vợ cả của Thúc Sinh. Khách du bỗng có một người, Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương. Vốn người huyện Tích châu Thường, Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri. Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào. Trướng tô giáp mặt hoa đào, Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa? Hải đường mơn mởn cành tơ, Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng. Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng, Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng? Lạ gì thanh khí lẽ hằng, Một dây một buộc ai giằng cho ra. Sớm đào tối mận lân la, Trước còn trăng gió sau ra đá vàng. Dịp đâu may mắn lạ dường, Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê. Sinh càng một tỉnh mười mê, Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân. Khi gió gác khi trăng sân, Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ. Khi hương sớm khi trà trưa, Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn. Miệt mài trong cuộc truy hoan, Càng quen thuộc nết càng dan díu tình. Lạ cho cái sóng khuynh thành, Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi. Thúc sinh quen thói bốc rời, Trăm nghìn đổ một trận cười như không. Mụ càng tô lục chuốt hồng, Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê. Xem thêm Dưới trăng quyên đã gọi hè, Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông. Buồng the phải buổi thong dong, Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. Rõ màu trong ngọc trắng ngà! Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Sinh càng tỏ nét càng khen, Ngụ tình tay thảo một thiên luật đường. Nàng rằng Vâng biết ý chàng. Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu. Hay hèn lẽ cũng nối điêu, Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang. Lòng còn gửi áng mây Vàng. Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay. Rằng Sao nói lạ lùng thay! Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra? Nàng càng ủ đột thu ba, Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh Thiếp như hoa đã lìa cành, Chàng như con bướm lượn vành mà chơi. Chúa xuân đành đã có nơi, Vắn ngày thôi chớ dài lời làm chi. Sinh rằng Từ thuở tương tri, Tấm riêng riêng những nặng vì nước non. Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông. Nàng rằng Muôn đội ơn lòng. Chút e bên thú bên tòng dễ đâu. Bình Khang nấn ná bấy lâu, Yêu hoa yêu được một màu điểm trang. Rồi ra lạt phấn phai hương, Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng? Vả trong thềm quế cung trăng, Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong. Bấy lâu khăng khít dải đồng, Thêm người người cũng chia lòng riêng tây. Vẻ chi chút phận bèo mây, Làm cho bể ái khi đầy khi vơi. Trăm điều ngang ngửa vì tôi, Thân sau ai chịu tội trời ấy cho? Như chàng có vững tay co, Mười phần cũng đắp điếm cho một vài. Thế trong dầu lớn hơn ngoài, Trước hàm sư tử gửi người đằng la. Cúi đầu luồn xuống mái nhà, Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng. Ở trên còn có nhà thông, Lượng trên trông xuống biết lòng có thương? Sá chi liễu ngõ hoa tường? Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh. Lại càng dơ dáng dại hình, Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng. Thương sao cho vẹn thì thương. Tính sao cho vẹn mọi đường xin vâng. Sinh rằng Hay nói đè chừng! Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao? Đường xa chớ ngại Ngô Lào, Trăm điều hãy cứ trông vào một ta. Đã gần chi có điều xa? Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều. Cùng nhau căn vặn đến điều, Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời. Nỉ non đêm ngắn tình dài, Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương. Mượn điều trúc viện thừa lương, Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi. Chiến hòa sắp sẵn hai bài, Cậy tay thầy thợ mượn người dò la. Bắn tin đến mặt Tú bà, Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao. Rõ ràng của dẫn tay trao, Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công. Công tư đôi lẽ đều xong, Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai. Một nhà sum họp trúc mai, Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông. Hương càng đượm lửa càng nồng, Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen. Nửa năm hơi tiếng vừa quen, Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. Giậu thu vừa nảy giò sương, Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi. Phong lôi nổi trận bời bời, Nặng lòng e ấp tính bài phân chia. Quyết ngay biện bạch một bề, Dạy cho má phấn lại về lầu xanh. Thấy lời nghiêm huấn rành rành, Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu. Rằng Con biết tội đã nhiều, Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam. Trót vì tay đã nhúng chàm, Dại rồi còn biết khôn làm sao đây. Cùng nhau vả tiếng một ngày, Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành. Lượng trên quyết chẳng thương tình, Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi. Thấy lời sắt đá tri tri, Sốt gan ông mới cáo quì cửa công. Đất bằng nổi sóng đùng đùng, Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra. Cùng nhau theo gót sai nha, Song song vào trước sân hoa lạy quì. Trông lên mặt sắt đen sì, Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời Gã kia dại nết chơi bời, Mà con người thế là người đong đưa. Tuồng chi hoa thải hương thừa, Mượn màu son phấn đánh lừa con đen. Suy trong tình trạng nguyên đơn, Bề nào thì cũng chưa yên bề nào. Phép công chiếu án luận vào. Có hai đường ấy muốn sao mặc mình. Một là cứ phép gia hình, Một là lại cứ lầu xanh phó về. Nàng rằng đã quyết một bề! Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần. Đục trong thân cũng là thân. Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình! Dạy rằng Cứ phép gia hình! Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. Phận đành chi dám kêu oan, Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày. Một sân lầm cát đã đầy, Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương. Nghĩ tình chàng Thúc mà thương, Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa. Khóc rằng Oan khốc vì ta! Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau. Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu. Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai. Phủ đường nghe thoảng vào tai, Động lòng lại gạn đến lời riêng tây. Sụt sùi chàng mới thưa ngay, Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân Nàng đà tính hết xa gần, Từ xưa nàng đã biết thân có rày. Tại tôi hứng lấy một tay, Để nàng cho đến nỗi này vì tôi. Nghe lời nói cũng thương lời, Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi. Rằng Như hẳn có thế thì Trăng hoa song cũng thị phi biết điều. Sinh rằng Chút phận bọt bèo, Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên. Cười rằng đã thế thì nên! Mộc già hãy thử một thiên trình nghề. Nàng vâng cất bút tay đề, Tiên hoa trình trước án phê xem tường. Khen rằng Giá đáng Thịnh đường! Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân! Thật là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn? Thôi đừng rước dữ cưu hờn, Làm chi lỡ nhịp cho đòn ngang cung. Đã đưa đến trước cửa công, Ngoài thì là lý song trong là tình. Dâu con trong đạo gia đình, Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong. Kíp truyền sắm sửa lễ công, Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao. Bày hàng cổ xúy xôn xao, Song song đưa tới trướng đào sánh đôi. Thương vì hạnh trọng vì tài, Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba. Huệ lan sực nức một nhà, Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa. 7. Kiều và Hoạn Thư Câu 1473-1704 Nội dung của 231 câu thơ Kiều này nói về việc Hoạn Thư sau khi biết chồng có vợ lẽ đã ngấm ngầm sai người bắt cóc Thuý Kiều về làm thị tì, rồi bắt Kiều hầu hạ hai vợ chồng trong tiệc rượu hàn huyên. Sau nhiều lần bị đánh đập một cách tàn nhẫn, Kiều bỏ trốn đến nương nhờ cửa Phật, nhưng một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh. Mảng vui rượu sớm cờ trưa, Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh, E tình nàng mới bày tình riêng chung Phận bồ từ vẹn chữ tòng, Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên. Tin nhà ngày một vắng tin, Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang. Nghĩ ra thật cũng nên đường, Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta? Trộm nghe kẻ lớn trong nhà, Ở vào khuôn phép nói ra mối đường. E thay những dạ phi thường, Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông! Mà ta suốt một năm ròng, Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao, Hoặc là trong có làm sao chăng là? Xin chàng kíp liệu lại nhà, Trước người đẹp ý sau ta biết tình. Đêm ngày giữ mức giấu quanh, Rày lần mai lữa như hình chưa thông. Nghe lời khuyên nhủ thong dong, Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang. Rạng ra gửi đến xuân đường, Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia. Tiễn đưa một chén quan hà, Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình. Sông Tần một dải xanh xanh, Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan. Cầm tay dài ngắn thở than, Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời. Nàng rằng Non nước xa khơi, Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm. Dễ lòa yếm thắm trôn kim, Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng! Đôi ta chút nghĩa đèo bòng, Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh. Dù khi sóng gió bất tình, Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi. Hơn điều giấu ngược giấu xuôi. Lại mang những việc tày trời đến sau. Thương nhau xin nhớ lời nhau, Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy. Chén đưa nhớ bữa hôm nay, Chén mừng xin đợi ngày này năm sau! Người lên ngựa kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Dặm hồng bụi cuốn chinh an, Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh. Người về chiếc bóng năm canh, Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi. Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. Xem thêm Kể chi những nỗi dọc đường, Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà Vốn dòng họ Hoạn danh gia, Con quan Lại Bộ tên là Hoạn Thư. Duyên đằng thuận nẻo gió đưa, Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày. Ở ăn thì nết cũng hay, Nói điều ràng buộc thì tay cũng già. Từ nghe vườn mới thêm hoa, Miệng người đã lắm tin nhà thì không. Lửa tâm càng dập càng nồng, Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa Ví bằng thú thật cùng ta, Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên. Dại chi chẳng giữ lấy nền, Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình? Lại còn bưng bít giấu quanh, Làm chi những thói trẻ ranh nực cười! Tính rằng cách mặt khuất lời, Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho! Lo gì việc ấy mà lo, Kiến trong miệng chén có bò đi đâu? Làm cho nhìn chẳng được nhau, Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên! Làm cho trông thấy nhãn tiền, Cho người thăm ván bán thuyền biết tay. Nỗi lòng kín chẳng ai hay, Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài. Tuần sau bỗng thấy hai người, Mách tin ý cũng liệu bài tâng công. Tiểu thư nổi giận đùng đùng Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi! Chồng tao nào phải như ai, Điều này hẳn miệng những người thị phi! Vội vàng xuống lệnh ra uy, Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng. Trong ngoài kín mít như bưng. Nào ai còn dám nói năng một lời! Buồng đào khuya sớm thảnh thơi, Ra vào một mực nói cười như không. Đêm ngày lòng những dặn lòng, Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên. Lời tan hợp nỗi hàn huyên, Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng. Tẩy trần vui chén thong dong, Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra. Chàng về xem ý tứ nhà, Sự mình cũng rắp lân la giãi bày. Mấy phen cười nói tỉnh say, Tóc tơ bất động mảy may sự tình. Nghĩ đà bưng kín miệng bình, Nào ai có khảo mà mình đã xưng? Những là e ấp dùng dằng, Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi. Có khi vui chuyện mua cười, Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu. Rằng Trong ngọc đá vàng thau, Mười phần ta đã tin nhau cả mười. Khen cho những chuyện dông dài, Bướm ong lại đặt những lời nọ kia. Thiếp dù bụng chẳng hay suy, Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười! Thấy lời thủng thỉnh như chơi, Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn. Những là cười phấn cợt son, Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai. Thú quê thuần hức bén mùi, Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ, Một màu quan tái mấy mùa gió trăng. Tình riêng chưa dám rỉ răng, Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua Cách năm mây bạc xa xa, Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn. Được lời như cởi tấc son, Vó câu chẳng ruổi nước non quê người. Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng. Roi câu vừa gióng dặm trường, Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh. Thưa nhà huyên hết mọi tình, Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen. Nghĩ rằng Ngứa ghẻ hờn ghen, Xấu chàng mà có ai khen chi mình! Vậy nên ngảnh mặt làm thinh, Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày. Lâm Tri đường bộ tháng chầy, Mà đường hải đạo sang ngay thì gần. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, Hãy đem dây xích buộc chân nàng về. Làm cho cho mệt cho mê, Làm cho đau đớn ê chề cho coi! Trước cho bõ ghét những người, Sau cho để một trò cười về sau. Phu nhân khen chước rất mầu, Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay. Sửa sang buồm gió lèo mây, Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang. Dặn dò hết các mọi đường, Thuận phong một lá vượt sang bến Tề. Nàng từ chiếc bóng song the, Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu. Bóng đâu đã xế ngang đầu, Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi. Tóc thề đã chấm ngang vai, Nào lời non nước nào lời sắt son. Sắn bìm chút phận cỏn con, Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? Thân sao nhiều nỗi bất bằng, Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao! Đêm thu gió lọt song đào, Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời. Nén hương đến trước Phật đài, Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân. Dưới hoa dậy lũ ác nhân, Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra. Đầy sân gươm tuốt sáng lòa, Thất kinh nàng chửa biết là làm sao. Thuốc mê đâu đã rưới vào, Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì. Vực ngay lên ngựa tức thì, Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong. Sẵn thây vô chủ bên sông, Đem vào để đó lộn sòng ai hay? Tôi đòi phách lạc hồn bay, Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình. Thúc ông nhà cũng gần quanh, Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi, Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao. Gió cao ngọn lửa càng cao, Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu! Hớt hơ hớt hải nhìn nhau, Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng. Chạy vào chốn cũ phòng hương, Trong tro thấy một đống xương cháy tàn. Tình ngay ai biết mưu gian, Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai! Thúc ông sùi sụt ngắn dài, Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na. Di hài nhặt gói về nhà, Nào là khâm liệm nào là tang trai. Lễ thường đã đủ một hai, Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ. Bước vào chốn cũ lầu thơ, Tro than một đống nắng mưa bốn tường. Sang nhà cha tới trung đường, Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên. Hỡi ôi nói hết sự duyên, Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan! Gieo mình vật vã khóc than Con người thế ấy thác oan thế này. Chắc rằng mai trúc lại vầy, Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau! Thương càng nghĩ nghĩ càng đau, Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây. Gần miền nghe có một thầy, Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền. Trên tam đảo dưới cửu tuyền, Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng. Sắm sanh lễ vật rước sang, Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han. Đạo nhân phục trước tĩnh đàn, Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương. Trở về minh bạch nói tường Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra. Người này nặng kiếp oan gia, Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho! Mệnh cung đang mắc nạn to, Một năm nữa mới thăm dò được tin. Hai bên giáp mặt chiền chiền, Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay! Điều đâu nói lạ dường này, Sự nàng đã thế lời thầy dám tin! Chẳng qua đồng cốt quàng xiên, Người đâu mà lại thấy trên cõi trần? Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân, Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên. Nước trôi hoa rụng đã yên, Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian. Khuyển ưng đã đắt mưu gian, Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền. Buồm cao lèo thẳng cánh suyền, Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang. Dỡ đò lên trước sảnh đường, Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công. Vực nàng tạm xuống môn phòng, Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai, Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây? Bàng hoàng giở tỉnh giở say, Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu. A hoàn trên dưới giục mau, Hãi hùng nàng mới theo sau một người. Ngước trông tòa rộng dãy dài, Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên. Ban ngày sáp thắp hai bên, Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra, Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa. Bất tình nổi trận mây mưa, Mắng rằng Những giống bơ thờ quen thân! Con này chẳng phải thiện nhân, Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng. Ra tuồng mèo mả gà đồng, Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào. Đã đem mình bán cửa tao, Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này. Nào là gia pháp nọ bay! Hãy cho ba chục biết tay một lần. A hoàn trên dưới dạ ran, Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào. Trúc côn ra sức đập vào, Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh. Xót thay đào lý một cành, Một phen mưa gió tan tành một phen. Hoa nô truyền dạy đổi tên, Buồng the dạy ép vào phiên thị tì. Ra vào theo lũ thanh y, Dãi dầu tóc rối da chì quản bao. Quản gia có một mụ nào, Thấy người thấy nết ra vào mà thương. Khi chè chén khi thuốc thang, Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh. Dạy rằng May rủi đã đành, Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay. Cũng là oan nghiệp chi đây, Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng. Ở đây tai vách mạch rừng, Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi. Kẻo khi sấm sét bất kỳ, Con ong cái kiến kêu gì được oan? Nàng càng giọt ngọc như chan, Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây Phong trần kiếp chịu đã đầy, Lầm than lại có thứ này bằng hai. Phận sao bạc chẳng vừa thôi, Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan. Đã đành túc trái tiền oan, Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi. Những là nương náu qua thì, Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia. Mẹ con trò chuyện lân la, Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời Tiểu thư dưới trướng thiếu người, Cho về bên ấy theo đòi lầu trang. Lãnh lời nàng mới theo sang, Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu. Sớm khuya khăn mắt lược đầu, Phận con hầu giữ con hầu dám sai. Phải đêm êm ả chiều trời, Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày. Lĩnh lời nàng mới lựa dây, Nỉ non thánh thót dễ say lòng người. Tiểu thư xem cũng thương tài, Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân. Cửa người đày đọa chút thân, Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng. Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng, Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau. Bốn phương mây trắng một màu, Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. Lần lần tháng trọn ngày qua, Nỗi gần nào biết đường xa thế này. Lâm Tri từ thuở uyên bay, Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân. Mày ai trăng mới in ngần, Phần thừa hương cũ bội phần xót xa. Sen tàn cúc lại nở hoa, Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân. Tìm đâu cho thấy cố nhân? Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương. Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương, Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê. Tiểu thư đón cửa giãi giề, Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa. Nhà hương cao cuốn bức là, Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng. Bước ra một bước một dừng, Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa Phải chăng nắng quáng đèn lòa, Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh? Bây giờ tình mới rõ tình, Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai. Chước đâu có chước lạ đời? Người đâu mà lại có người tinh ma? Rõ ràng thật lứa đôi ta, Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi. Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao. Bây giờ đất thấp trời cao, Ăn làm sao nói làm sao bây giờ? Càng trông mặt càng ngẩn ngơ, Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời. Sợ uy dám chẳng vâng lời, Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều. Sinh đà phách lạc hồn siêu Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây? Nhân làm sao đến thế này? Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi! Sợ quen dám hở ra lời, Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa. Tiểu thư trông mặt hỏi tra Mới về có việc chi mà động dong? Sinh rằng hiếu phục vừa xong, Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên. Khen rằng Hiếu tử đã nên! Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu. Vợ chồng chén tạc chén thù, Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi. Bắt khoan bắt nhặt đến lời, Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay. Sinh càng như dại như ngây, Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi. Ngảnh đi chợt nói chợt cười, Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra. Tiểu thư vội thét Con Hoa! Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn. Sinh càng nát ruột tan hồn, Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay. Tiểu thư cười nói tỉnh say, Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi. Rằng Hoa nô đủ mọi tài, Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe. Nàng đà tán hoán tê mê, Vâng lời ra trước bình the vặn đàn. Bốn dây như khóc như than, Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng. Cùng chung một tiếng tơ đồng, Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm. Giọt châu lã chã khôn cầm, Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương. Tiểu thư lại thét lấy nàng Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi? Sao chẳng biết ý tứ gì? Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi. Sinh càng thảm thiết bồi hồi, Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua. Giọt rồng canh đã điểm ba, Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm. Lòng riêng khấp khởi mừng thầm Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay. Sinh thì gan héo ruột đầy, Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng. Người vào chung gối loan phòng, Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài Bây giờ mới rõ tăm hơi, Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen! Chước đâu rẽ thúy chia uyên, Ai ra đường nấy ai nhìn được ai. Bây giờ một vực một trời, Hết điều khinh trọng hết lời thị phi. Nhẹ như bấc nặng như chì, Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên? Lỡ làng chút phận thuyền quyên, Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? Một mình âm ỉ đêm chày, Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh. Sớm trưa hầu hạ đài doanh, Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra. Lựa lời nàng mới thưa qua Phải khi mình lại xót xa nỗi mình. Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao! Sinh đà rát ruột như bào, Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang! Những e lại lụy đến nàng, Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra. Cúi đầu quỳ trước sân hoa, Thân cung nàng mới dâng qua một tờ. Diện tiền trình với Tiểu thư, Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình. Liền tay trao lại Thúc Sinh, Rằng Tài nên trọng mà tình nên thương! Ví chăng có số giàu sang, Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên! Bể trần chìm nổi thuyền quyên, Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời! Sinh rằng Thật có như lời, Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay! Nghìn xưa âu cũng thế này, Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa. Tiểu thư rằng ý trong tờ, Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không. Thôi thì thôi cũng chiều lòng, Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra. Sẵn Quan Âm Các vườn ta, Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa. Có cổ thụ, có sơn hồ, Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh. Tàng tàng trời mới bình minh, Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường. Đưa nàng đến trước Phật đường, Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia. Áo xanh đổi lấy cà sa, Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền. Sớm khuya sắm đủ dầu đèn, Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà. Nàng từ lánh gót vườn hoa, Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Nhân duyên đâu lại còn mong, Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi. Phật tiền thảm lấp sầu vùi, Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương. Cho hay giọt nước cành dương, Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên. Nâu sồng từ trở màu thiền, Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu, Cửa thiền, then nhặt, lưới mau, Nói lời trước mặt, rời châu vắng người. Gác kinh viện sách đôi nơi, Trong gang tấc lại gấp mười quan san. Những là ngậm thở nuốt than, Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà. Thừa cơ, sinh mới lẻn ra, Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng. Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng, Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh Đã cam chịu bạc với tình, Chúa xuân để tội một mình cho hoa! Thấp cơ thua trí đàn bà, Trông vào đau ruột nói ra ngại lời. Vì ta cho lụy đến người, Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh! Quản chi lên thác xuống ghềnh, Cũng toan sống thác với tình cho xong. Tông đường chút chửa cam lòng, Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai. Thẹn mình đá nát vàng phai, Trăm thân dễ chuộc một lời được sao? Nàng rằng Chiếc bách sóng đào, Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may! Chút thân quằn quại vũng lầy, Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao? Cũng liều một giọt mưa rào, Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay! Xót vì cầm đã bén dây, Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta. Liệu bài mở cửa cho ra, Ấy là tình nặng ấy là ân sâu! Sinh rằng Riêng tưởng bấy lâu, Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường. Nữa khi giông tố phũ phàng, Thiệt riêng đó cũng lại càng cực đây. Liệu mà xa chạy cao bay, Ái ân ta có ngần này mà thôi! Bây giờ kẻ ngược người xuôi, Biết bao giờ lại nối lời nước non? Dẫu rằng sông cạn đá mòn, Con tằm đến thác cũng còn vương tơ! Cùng nhau kể lể sau xưa, Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời. Mặt trông tay chẳng nỡ rời, Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa. Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra, Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào. Cười cười, nói nói ngọt ngào, Hỏi Chàng mới ở chốn nào lại chơi? Dối quanh Sinh mới liệu lời Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh. Khen rằng Bút pháp đã tinh, So vào với thiếp Lan đình nào thua! Tiếc thay lưu lạc giang hồ, Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài! Thiền trà cạn chén hồng mai, Thong dong nối gót thư trai cùng về. Nàng càng e lệ ủ ê, Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau. Hoa rằng Bà đã đến lâu, Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ. Rành rành kẽ tóc chân tơ, Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường. Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương, Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than. Ngăn tôi đứng lại một bên, Chán tai rồi mới bước lên trên lầu. Nghe thôi kinh hãi xiết đâu Đàn bà thế ấy thấy âu một người! Ấy mới gan ấy mới tài, Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời! Người đâu sâu sắc nước đời, Mà chàng Thúc phải ra người bó tay! Thực tang bắt được dường này, Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng. Thế mà im chẳng đãi đằng, Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng! Giận dầu ra dạ thế thường, Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu! Thân ta ta phải lo âu, Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này! Ví chăng chắp cánh cao bay, Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa! Phận bèo bao quản nước sa, Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Chỉn e quê khách một mình, Tay không chưa dễ tìm vành ấm no! Nghĩ đi nghĩ lại quanh co, Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân. Bên mình giắt để hộ thân, Lần nghe canh đã một phần trống ba. Cất mình qua ngọn tường hoa, Lần đường theo bóng trăng tà về tây. 8. Kiều gặp Từ Hải Câu 2029-2288 Gói gọn trong 259 câu thơ Kiều này là câu chuyện Kiều ở lầu xanh gặp được Từ Hải, một anh hùng lừng danh thời đó. Hai bên đã phải lòng nhau, Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và cưới nàng về làm vợ. Mịt mù dặm cát đồi cây, Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương. Canh khuya thân gái dặm trường, Phần e đường xá, phần thương dãi dầu! Trời đông vừa rạng ngàn dâu, Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà! Chùa đâu trông thấy nẻo xa, Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài. Xăm xăm gõ mái cửa ngoài, Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong. Thấy màu ăn mặc nâu sồng, Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương. Gạn gùng ngành ngọn cho tường, Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh, Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu. Bản sư rồi cũng đến sau, Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh. Rày vâng diện hiến rành rành, Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra. Xem qua sư mới dạy qua Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình. Chỉ e đường sá một mình, Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày. Gửi thân được chốn am mây, Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong. Kệ kinh câu cũ thuộc lòng, Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay. Sớm khuya lá bối phướn mây, Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương. Thấy nàng thông tuệ khác thường, Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân. Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân, Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời. Gió quang mây tạnh thảnh thơi, Có người đàn việt lên chơi cửa Già. Giở đồ chuông khánh xem qua, Khen rằng Khéo giống của nhà Hoạn nương! Giác Duyên thực ý lo lường, Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau. Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu, Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay Bây giờ sự đã dường này, Phận hèn dù rủi, dù may, tại người. Giác Duyên nghe nói rụng rời, Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong. Rỉ tai nàng mới giãi lòng Ở đây cửa Phật là không hẹp gì; E chăng những sự bất kỳ, Để nàng cho đến thế thì cũng thương! Lánh xa, trước liệu tìm đường, Ngồi chờ nước đến, nên đường còn quê! Có nhà họ Bạc bên kia, Am mây quen lối đi về dầu hương. Nhắn sang, dặn hết mọi đường, Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân. Xem thêm Những mừng được chốn an thân, Vội vàng nào kịp tính gần tính xa. Nào ngờ cũng tổ bợm già, Bạc bà học với Tú bà đồng môn! Thấy nàng mặt phấn tươi son, Mừng thầm được mối bán buôn có lời. Hư không đặt để nên lời, Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen. Mụ càng xua đuổi cho liền, Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần. Rằng Nàng muôn dặm một thân, Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa. Khéo oan gia, của phá gia, Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây! Kíp toan kiếm chốn xe dây, Không dưng chưa dễ mà bay đường trời! Nơi gần thì chẳng tiện nơi, Nơi xa thì chẳng có người nào xa. Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà, Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai. Cửa hàng buôn bán châu Thai, Thực thà có một, đơn sai chẳng hề. Thế nào nàng cũng phải nghe, Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai. Bấy giờ ai lại biết ai, Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh. Nàng dù quyết chẳng thuận tình, Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau. Nàng càng mặt ủ mày chau, Càng nghe mụ nói, càng đau như dần. Nghĩ mình túng đất, sẩy chân, Thế cùng nàng mới xa gần thở than Thiếp như con én lạc đàn, Phải cung rày đã sợ làn cây cong! Cùng đường dù tính chữ tòng, Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Nữa khi muôn một thế nào, Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu? Dù ai lòng có sở cầu, Tâm mình xin quyết với nhau một lời. Chứng minh có đất, có Trời, Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì? Được lời mụ mới ra đi, Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh. Một nhà dọn dẹp linh đình, Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang. Bạc sinh quì xuống vội vàng, Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công. Trước sân lòng đã giãi lòng, Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên. Thành thân mới rước xuống thuyền, Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai. Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi, Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày. Cũng nhà hành viện xưa nay, Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người. Xem người định giá vừa rồi, Mối hàng một, đã ra mười, thì buông. Mượn người thuê kiệu rước nường, Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa! Kiệu hoa đặt trước thềm hoa, Bên trong thấy một mụ ra vội vàng. Đưa nàng vào lạy gia đường, Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh! Thoắt trông nàng đã biết tình, Chim lồng khốn lẽ cất mình bay cao. Chém cha cái số hoa đào, Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi! Nghĩ đời mà chán cho đời, Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen! Tiếc thay nước đã đánh phèn, Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần! Hồng quân với khách hồng quần, Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha. Lỡ từ lạc bước bước ra, Cái thân liệu những từ nhà liệu đi. Đầu xanh đã tội tình chi? Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi. Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Lần thu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi, Râu hùm, hàm én, mày ngài, Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo. Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều, Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa. Từ rằng Tâm phúc tương cờ Phải người trăng gió vật vờ hay sao? Bấy lâu nghe tiếng má đào, Mắt xanh chẳng để ai vào có không? Một đời được mấy anh hùng, Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi! Nàng rằng Người dạy quá lời, Thân này còn dám xem ai làm thường! Chút riêng chọn đá thử vàng, Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu? Còn như vào trước ra sau, Ai cho kén chọn vàng thau tại mình. Từ rằng Lời nói hữu tình, Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. Lại đây xem lại cho gần, Phỏng tin được một vài phần hay không? Thưa rằng Lượng cả bao dong, Tấn Dương được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau! Nghe lời vừa ý gật đầu, Cười rằng Tri kỷ trước sau mấy người! Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! Một lời đã biết tên ta, Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau! Hai bên ý hợp tâm đầu, Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân, Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn. Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn, Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền nguyên, Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong. Nàng rằng Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi! Từ rằng Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia, Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận, biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì? Quyết lời rứt áo ra đi, Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi. Nàng thì chiếc bóng song mai, Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây. Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy, Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân. Đoái thương muôn dặm tử phần Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa; Xót thay huyên cỗi xuân già, Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi. Chốc là mười mấy năm trời, Còn ra khi đã da mồi tóc sương. Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng! Duyên em dù nối chỉ hồng, May ra khi đã tay bồng tay mang. Tấc lòng cố quốc tha hương, Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời. Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. Đêm ngày luống những âm thầm, Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương, Ngất trời sát khí mơ màng, Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh. Người quen kẻ thuộc chung quanh Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi. Nàng rằng Trước đã hẹn lời, Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa. Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa. Giáp binh kéo đến quanh nhà, Đồng thanh cùng gửi nào là phu nhân? Hai bên mười vị tướng quân, Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu. Cung nga, thể nữ nối sau, Rằng Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui. Sẵn sàng phượng liễn loan nghi, Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng. Dựng cờ, nổi trống lên đàng, Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau. Hoả bài tiền lộ ruổi mau, Nam đình nghe động trống chầu đại doanh. Kéo cờ lũy, phát súng thành, Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài. Rỡ mình, là vẻ cân đai, Hãy còn hàm én mày ngài như xưa. Cười rằng Cá nước duyên ưa, Nhớ lời nói những bao giờ hay không? Anh hùng mới biết anh hùng, Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa? Nàng rằng Chút phận ngây thơ, Cũng may dây cát được nhờ bóng cây. Đến bây giờ mới thấy đây, Mà lòng đã chắc những ngày một hai. Cùng nhau trông mặt cả cười, Dan tay về chốn trướng mai tự tình. Tiệc bày thưởng tướng khao binh Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân. Vinh hoa bõ lúc phong trần, Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày. 9. Kiều báo thù Câu 2289-2418 Nối tiếp câu chuyện sau khi cưới Kiều về làm vợ, Từ Hải cũng lập được sự nghiệp và đã giúp Thúy Kiều báo ân báo oán, tất cả đã được tác giả thể hiện trọn vẹn trong 129 câu thơ Kiều dưới đây. Trong quân có lúc vui vầy, Thong dong mới kể sự ngày hàn vi Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng, Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong. Từ Công nghe nói thủy chung, Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang. Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng, Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao. Ba quân chỉ ngọn cờ đào, Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri, Mấy người phụ bạc xưa kia, Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra. Lại sai lệnh tiễn truyền qua, Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên. Mụ quản gia, vãi Giác Duyên, Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời. Thệ sư kể hết mọi lời, Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy! Đạo trời báo phục chỉn ghê, Khéo thay! Một mẻ tóm về đầy nơi, Quân trung gươm lớn áo dài, Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi. Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi, Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân. Trướng hùm mở giữa trung quân, Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi. Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên. Từ rằng ân, oán hai bên, Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh Nàng rằng Nhờ cậy uy linh, Hãy xin báo đáp ân tình cho phu. Báo ân rồi sẽ trả thù. Từ rằng Việc ấy phó cho mặc nàng. Cho gươm mời đến Thúc lang, Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run. Nàng rằng Nghĩa trọng nghìn non, Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân? Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là! Vợ chàng quỷ quái tinh ma, Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau! Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Thúc Sinh trông mặt bấy giờ, Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm. Lòng riêng mừng sợ khôn cầm, Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai. Mụ già, sư trưởng thứ hai, Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên Dắt tay mở mặt cho nhìn Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi. Nhớ khi lỡ bước xẩy vời, Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương. Nghìn vàng gọi chút lễ thường, Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân? Hai người, trông mặt tần ngần, Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui. Nàng rằng Xin hãy dốn ngôi, Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù! Xem thêm Kíp truyền chư tướng hiến phù, Lại đem các tích phạm tù hậu tra. Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra, Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư. Thoạt trông nàng đã chào thưa Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây? Đàn bà dễ có mấy tay, Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan? Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều! Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca. Rằng Tôi chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình, Nghĩ cho khi gác viết kinh, Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Lòng riêng riêng những kính yêu; Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai. Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng? Khen cho Thật đã nên rằng, Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời, Tha ra thì cũng may đời, Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen. Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay. Tạ lòng lạy trước sân may, Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào, Nàng rằng Lồng lộng trời cao, Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta? Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà, Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh. Tú Bà cùng Mã Giám Sinh, Các tên tội ấy đáng tình còn sao? Lệnh quân truyền xuống nội đao, Thề sao thì lại cứ sao gia hình, Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời. Cho hay muôn sự tại trời, Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta! Mấy người bạc ác tinh ma, Mình làm mình chịu kêu mà ai thương. Ba quân đông mặt pháp trường, Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi. Việc nàng báo phục vừa rồi, Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui. Nàng rằng Thiên tải nhất thì, Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn. Rồi đây bèo hợp mây tan, Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu! Sư rằng Cũng chẳng bao lâu, Trong năm năm lại gặp nhau đó mà. Nhớ ngày hành cước phương xa, Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri. Bảo cho hội ngộ chi kỳ, Năm nay là một nữa thì năm năm. Mới hay tiền định chẳng lầm, Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau. Còn nhiều ân ái với nhau, Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì? Nàng rằng Tiền định tiên tri, Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai. Họa bao giờ có gặp người, Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân. Giác Duyên vâng dặn ân cần, Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài. 10. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn Câu 2419-2738 Nội dung 319 câu thơ tiếp theo trong tập thơ Truyện Kiều nói về việc niềm vui đến với Thúy Kiều không bao lâu, Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến khuyên Từ Hải ra hàng phục triều đình khiến cho Từ Hải bị chết. Kiều bị làm nhục và bị ép gả cho một viên thổ quan. Đau xót và tủi nhục, nàng đã tự tử ở sông Tiền Đường. Nàng từ ân oán rạch ròi, Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng. Tạ ân lạy trước Từ công Chút thân bồ liễu nào mong có rày! Trộm nhờ sấm sét ra tay, Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi! Chạm xương chép dạ xiết chi, Dễ đem gan óc đền nghì trời mây! Từ rằng Quốc sĩ xưa nay, Chọn người tri kỷ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng, Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha! Huống chi việc cũng việc nhà, Lọ là thâm tạ mới là tri ân. Xót nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa. Sao cho muôn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng. Vội truyền sửa tiệc quân trung, Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan. Thừa cơ trúc chẻ ngói tan, Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài. Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà. Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam. Phong trần mài một lưỡi gươm, Những loài giá áo túi cơm sá gì! Nghênh ngang một cõi biên thùy, Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương! Trước cờ ai dám tranh cường, Năm năm hùng cứ một phương hải tần. Xem thêm Có quan tổng đốc trọng thần, Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung. Biết Từ là đấng anh hùng, Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn. Đóng quân làm chước chiêu an, Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng. Lại riêng một lễ với nàng, Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân. Tin vào gởi trước trung quân, Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành! Bó thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu? Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi? Sao bằng riêng một biên thùy, Sức này đã dễ làm gì được nhau? Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai? Nàng thời thật dạ tin người, Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân. Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì! Công tư vẹn cả hai bề, Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước dưới vì nhà, Một là đắc hiếu hai là đắc trung. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng, E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa. Nhân khi bàn bạc gần xa, Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào. Rằng Trong Thánh trạch dồi dào, Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu. Bình thành công đức bấy lâu, Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao. Ngẫm từ gây việc binh đao, Đống xương Vô định đã cao bằng đầu. Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào! Sao bằng lộc trọng quyền cao, Công danh ai dứt lối nào cho qua? Nghe lời nàng nói mặn mà, Thế công Từ mới trở ra thế hàng. Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng, Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh. Tin lời thành hạ yêu minh, Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng, Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư. Hồ công quyết kế thừa cơ, Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công. Kéo cờ chiêu phủ tiên phong, Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau. Từ công hờ hững biết đâu, Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên. Hồ công ám hiệu trận tiền, Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ. Đương khi bất ý chẳng ngờ, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn! Tử sinh liều giữa trận tiền, Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân! Khí thiêng khi đã về thần, Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! Trơ như đá vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời. Quan quân truy sát đuổi dài. Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang. Trong hào ngoài lũy tan hoang, Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi. Trong vòng tên đá bời bời, Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ. Khóc rằng Trí dũng có thừa, Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này! Mặt nào trông thấy nhau đây? Thà liều sống thác một ngày với nhau! Dòng thu như dội cơn sầu, Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên. Lạ thay oan khí tương triền! Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra. Quan quân kẻ lại người qua, Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần. Đem vào đến trước trung quân, Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han. Rằng Nàng chút phận hồng nhan, Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương! Đã hay thành toán miếu đường, Giúp công cũng có lời nàng mới nên. Bây giờ sự đã vẹn tuyền, Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào? Nàng càng giọt ngọc tuôn dào, Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng. Rằng Từ là đấng anh hùng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi! Tin tôi nên quá nghe lời, Đem thân bách chiến làm tôi triều đình. Ngỡ là phu quý phụ vinh, Ai ngờ một phút tan tành thịt xương! Năm năm trời bể ngang tàng, Đem mình đi bỏ chiến trường như không. Khéo khuyên kể lấy làm công, Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu! Xét mình công ít tội nhiều, Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi! Xin cho tiện thổ một doi, Gọi là đắp điếm cho người tử sinh. Hồ công nghe nói thương tình, Truyền cho cảo táng di hình bên sông. Trong quân mở tiệc hạ công, Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan. Bắt nàng thị yến dưới màn, Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu. Một cung gió thảm mưa sầu, Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay! Ve ngâm vượn hót nào tày, Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu. Hỏi rằng Này khúc ở đâu? Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay! Thưa rằng Bạc mệnh khúc này, Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ. Cung cầm lựa những ngày xưa, Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây! Nghe càng đắm ngắm càng say, Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình! Dạy rằng Hương lửa ba sinh, Dây loan xin nối cầm lành cho ai. Thưa rằng Chút phận lạc loài, Trong mình nghĩ đã có người thác oan. Còn chi nữa cánh hoa tàn, Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân. Rộng thương còn mảnh hồng quần, Hơi tàn được thấy gốc phần là may! Hạ công chén đã quá say, Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra. Nghĩ mình phương diện quốc gia, Quan trên nhắm xuống người ta trông vào. Phải tuồng trăng gió hay sao, Sự này biết tính thế nào được đây? Công nha vừa buổi rạng ngày, Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài. Lệnh quan ai dám cãi lời, Ép tình mới gán cho người thổ quan. Ông tơ thực nhẽ đa đoan! Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên? Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền, Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao. Nàng càng ủ liễu phai đào, Trăm phần nào có phần nào phần tươi? Đành thân cát lấp sóng vùi, Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh! Chân trời mặt bể lênh đênh, Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào, Duyên đâu ai dứt tơ đào, Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay! Thân sao thân đến thế này? Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi! Đã không biết sống là vui, Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương! Một mình cay đắng trăm đường, Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi! Mảnh trăng đã gác non đoài, Một mình luống những đứng ngồi chưa xong. Triều đâu nổi tiếng đùng đùng, Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền đường. Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây! Đạm Tiên nàng nhé có hay! Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa, Một thiên tuyệt bút gọi là để sau. Cửa bồng vội mở rèm châu, Trời cao sông rộng một màu bao la. Rằng Từ công hậu đãi ta, Chút vì việc nước mà ra phụ lòng. Giết chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời? Thôi thì một thác cho rồi, Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông! Trông vời con nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang. Thổ quan theo vớt vội vàng, Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi! Thương thay cũng một kiếp người, Hại thay mang lấy sắc tài làm chi! Những là oan khổ lưu ly, Chờ cho hết kiếp còn gì là thân! Mười lăm năm bấy nhiêu lần, Làm gương cho khách hồng quần thử soi! Đời người đến thế thì thôi, Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay. Mấy người hiếu nghĩa xưa nay, Trời làm chi đến lâu ngày càng thương! Giác Duyên từ tiết giã nàng, Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du. Gặp bà Tam Hợp đạo cô, Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng Người sao hiếu nghĩa đủ đường, Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi? Sư rằng Phúc họa đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta, Tu là cõi phúc tình là dây oan. Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan, Vô duyên là phận hồng nhan đã đành, Lại mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy nên những chốn thong dong, Ở không yên ổn ngồi không vững vàng. Ma đưa lối quỷ dẫn đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi. Hết nạn ấy đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Trong vòng giáo dựng gươm trần, Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi. Giữa dòng nước dẫy sóng dồi, Trước hàm rồng cá gieo mồi thuỷ tinh. Oan kia theo mãi với tình, Một mình mình biết một mình mình hay. Làm cho sống đọa thác đầy, Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi! Giác Duyên nghe nói rụng rời Một đời nàng nhé thương ôi còn gì! Sư rằng Song chẳng hề chi, Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều. Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều, Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm, Lấy tình thâm trả nghĩa thâm, Bán mình đã động hiếu tâm đến trời! Hại một người cứu muôn người, Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng. Thửa công đức ấy ai bằng? Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi! Khi nên trời cũng chiều người, Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau. Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau, Tiền đường thả một bè lau rước người. Trước sau cho vẹn một lời, Duyên ta mà cũng phúc trời chi không! Giác Duyên nghe nói mừng lòng, Lân la tìm thú bên sông Tiền đường, Đánh tranh chụm nóc thảo đường, Một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Thuê năm ngư phủ hai người, Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông. Một lòng chẳng quản mấy công, Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần! Kiều từ gieo xuống duềnh ngân, Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi. Ngư ông kéo lưới vớt người, Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa! Trên mui lướt mướt áo là Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương. Giác Duyên nhận thật mặt nàng, Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai. Mơ màng phách quế hồn mai, Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa. Rằng Tôi đã có lòng chờ, Mất công mười mấy năm thừa ở đây. Chị sao phận mỏng phúc dày, Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai! Tâm thành đã thấu đến trời, Bán mình là hiếu cứu người là nhân. Một niềm vì nước vì dân, Âm công cất một đồng cân đã già! Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau. Còn nhiều hưởng thụ về lâu, Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào! Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao, Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai. Giật mình thoắt tỉnh giấc mai, Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn. Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên, Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề. Thấy nhau mừng rỡ trăm bề, Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư. Một nhà chung chạ sớm trưa, Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng. Bốn bề bát ngát mênh mông, Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau. Nạn xưa trút sạch lầu lầu, Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này. 11. Kim Trọng đi tìm Kiều Câu 2739-2972 Trong 233 câu thơ Kiều tiếp theo này nói về việc Kim Trọng và gia đình đi tìm kiếm Thúy Kiều. Nỗi nàng tai nạn đã đầy, Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương. Từ ngày muôn dặm phù tang, Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà. Vội sang vườn Thúy dò la, Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa. Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời. Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Xập xè én liệng lầu không, Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa. Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? Láng giềng có kẻ sang chơi, Lân la sẽ hỏi một hai sự tình. Hỏi ông ông mắc tụng đình, Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha. Hỏi nhà nhà đã dời xa, Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân. Đều là sa sút khó khăn, May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi. Điều đâu sét đánh lưng trời, Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao! Vội han di trú nơi cao, Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi. Nhà tranh vách đất tả tơi, Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa. Một sân đất cỏ dầm mưa, Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường! Xem thêm Đánh liều lên tiếng ngoài tường, Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra. Dắt tay vội rước vào nhà, Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay. Khóc than kể hết niềm tây Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa? Kiều nhi phận mỏng như tờ, Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng! Gặp cơn gia biến lạ dường, Bán mình nó phải tìm đường cứu cha. Dùng dằng khi bước chân ra, Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần. Trót lời hẹn với lang quân, Mượn con em nó Thúy Vân thay lời. Gọi là trả chút nghĩa người, Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên! Kiếp này duyên đã phụ duyên, Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh. Mấy lời ký chú đinh ninh, Ghi lòng để dạ cất mình ra đi. Phận sao bạc bấy Kiều nhi! Chàng Kim về đó con thì đi đâu? Ông bà càng nói càng đau, Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa. Vật mình vẫy gió tuôn mưa, Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai! Đau đòi đoạn ngất đòi thôi, Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê. Thấy chàng đau nỗi biệt ly, Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên Bây giờ ván đã đóng thuyền, Đã đành phận bạc khôn đền tình chung! Quá thương chút nghĩa đèo bòng, Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao? Dỗ dành khuyên giải trăm chiều, Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền. Thề xưa giở đến kim hoàn, Của xưa lại giở đến đàn với hương. Sinh càng trông thấy càng thương. Gan càng tức tối ruột càng xót xa. Rằng Tôi trót quá chân ra, Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo. Cùng nhau thề thốt đã nhiều, Những điều vàng đá phải điều nói không! Chưa chăn gối cũng vợ chồng, Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang? Bao nhiêu của mấy ngày đàng, Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi! Nỗi thương nói chẳng hết lời, Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra. Vội về sửa chốn vườn hoa, Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang. Thần hôn chăm chút lễ thường, Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa. Đinh ninh mài lệ chép thơ, Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe. Biết bao công mướn của thuê, Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi. Người một nơi hỏi một nơi, Mênh mông nào biết bể trời nơi nao? Sinh càng thảm thiết khát khao, Như nung gan sắt như bào lòng son. Ruột tằm ngày một héo don, Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve. Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao. Xuân huyên lo sợ biết bao, Quá ra khi đến thế nào mà hay! Vội vàng sắm sửa chọn ngày, Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng. Người yểu điệu kẻ văn chương, Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì, Tuy rằng vui chữ vu quy, Vui nào đã cất sầu kia được nào! Khi ăn ở lúc ra vào, Càng âu duyên mới càng dào tình xưa. Nỗi nàng nhớ đến bao giờ, Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng. Có khi vắng vẻ thư phòng, Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa. Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm. Dường như bên nóc trước thềm, Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng, Bởi lòng tạc đá ghi vàng, Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây. Những là phiền muộn đêm ngày, Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần? Chế khoa gặp hội trường văn. Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày. Cửa trời rộng mở đường mây, Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. Chàng Vương nhớ đến xa gần, Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền. Tình xưa ân trả nghĩa đền, Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần. Kim từ nhẹ bước thanh vân, Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương. Ấy ai dặn ngọc thề vàng, Bây giờ kim mã ngọc đường với ai? Ngọn bèo chân sóng lạc loài, Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly. Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy, Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn. Cầm đường ngày tháng thanh nhàn, Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao. Phòng xuân trướng rủ hoa đào, Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng. Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng, Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi. Họ Lâm thanh với Lâm truy, Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm. Trong cơ thanh khí tương tầm, Ở đây hoặc có giai âm chăng là? Thăng đường chàng mới hỏi tra, Họ Đô có kẻ lại già thưa lên Sự này đã ngoại mười niên, Tôi đà biết mặt biết tên rành rành. Tú bà cùng Mã Giám sinh, Đi mua người ở Bắc kinh đưa về. Thúy Kiều tài sắc ai bì, Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ. Kiên trinh chẳng phải gan vừa, Liều mình thế ấy phải lừa thế kia. Phong trần chịu đã ê chề, Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang. Phải tay vợ cả phũ phàng, Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa. Rứt mình nàng phải trốn ra, Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia. Thoắt buôn về thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi! Bỗng đâu lại gặp một người, Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh. Trong tay mười vạn tinh binh, Kéo về đóng chật một thành Lâm truy Tóc tơ các tích mọi khi, Oán thì trả oán ân thì trả ân. Đã nên có nghĩa có nhân, Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen. Chưa từng được họ được tên, Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường. Nghe lời đô nói rõ ràng, Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh. Nỗi nàng hỏi hết phân minh, Chồng con đâu tá tính danh là gì? Thúc rằng Gặp buổi loạn ly, Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ. Đại vương tên Hải họ Từ, Đánh quen trăm trận sức dư muôn người Gặp nàng khi ở châu Thai, Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên, Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng. Đại quân đồn đóng cõi đông, Về sau chẳng biết vân mồng làm sao. Nghe tường ngành ngọn tiêu hao, Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ. Xót thay chiếc lá bơ vơ, Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong? Hoa trôi nước chảy xuôi dòng, Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan! Lời xưa đã lỗi muôn vàn, Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây, Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây, Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi? Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an! Rắp mong treo ấn từ quan, Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha. Dấn mình trong án can qua, Vào sinh ra tử họa là thấy nhau. Nghĩ điều trời thẳm vực sâu, Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn! Những là nấn ná đợi tin, Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dời Năm mây bỗng thấy chiếu trời, Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành. Kim thì cải nhậm Nam bình, Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu dương. Sắm xanh xe ngựa vội vàng, Hai nhà cùng thuận một đường phó quan. Xảy nghe thế giặc đã tan, Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiếc giang. Được tin Kim mới rủ Vương, Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa. Hàng Châu đến đó bây giờ, Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành. Rằng Ngày hôm nọ giao binh, Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền. Nàng Kiều công cả chẳng đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù. Nàng đà gieo ngọc trầm châu, Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan! Thương ôi! không hợp mà tan, Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng! Chiêu hồn thiết vị lễ thường, Giải oan lập một đàn tràng bên sông. Ngọn triều non bạc trùng trùng, Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. Tình thâm bể thảm lạ điều, Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào? 12. Kiều – Kim Trọng đoàn tụ Câu 2973-3254 281 câu thơ cuối cùng trong tập thơ Truyện Kiều là cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều và cha mẹ, hai em cùng chàng Kim Trọng sau 15 năm trời lưu lạc. Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi. Trông lên linh vị chữ bài, Thất kinh mới hỏi Những người đâu ta? Với nàng thân thích gần xa, Người còn sao bỗng làm ma khóc người? Nghe tin ngơ ngác rụng rời, Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra Này chồng này mẹ này cha, Này là em ruột này là em dâu. Thật tin nghe đã bấy lâu, Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường! Sư rằng Nhân quả với nàng, Lâm truy buổi trước Tiền đường buổi sau. Khi nàng gieo ngọc trầm châu, Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về, Cùng nhau nương cửa bồ đề, Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa. Phật tiền ngày bạc lân la, Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây. Nghe tin nở mặt nở mày, Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? Từ phen chiếc lá lìa rừng, Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây. Rõ ràng hoa rụng hương bay, Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi. Minh dương đôi ngả chắc rồi, Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên! Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên, Bộ hành một lũ theo liền một khi. Bẻ lau vạch cỏ tìm đi, Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần. Quanh co theo dải giang tân, Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường. Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra. Trông xem đủ mặt một nhà Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi. Hai em phương trưởng hòa hai, Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! Tưởng bây giờ là bao giờ, Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! Giọt châu thánh thót quẹn bào, Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình! Huyên già dưới gối gieo mình, Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi Từ con lưu lạc quê người, Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm! Tính rằng sông nước cát lầm, Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây! Ông bà trông mặt cầm tay, Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra. Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa, Mười phần xuân có gầy ba bốn phần. Nỗi mừng biết lấy chi cân? Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu! Hai em hỏi trước han sau, Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi. Quây nhau lạy trước Phật đài, Tái sinh trần tạ lòng người từ bi. Xem thêm Kiệu hoa giục giã tức thì, Vương ông dạy rước cùng về một nơi. Nàng rằng Chút phận hoa rơi, Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. Tính rằng mặt nước chân mây, Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? Được rày tái thế tương phùng. Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay! Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa Mùi thiền đã bén muối dưa, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! Dở dang nào có hay gì, Đã tu tu trót quá thì thì thôi! Trùng sinh ân nặng bể trời, Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi? Ông rằng Bỉ thử nhất thì, Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. Phải điều cầu Phật cầu Tiên, Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây? Độ sinh nhờ đức cao dày, Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung. Nghe lời nàng cũng chiều lòng, Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra. Một nhà về đến quan nha, Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. Tàng tàng chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới giãi bày một hai. Rằng Trong tác hợp cơ trời. Hai bên gặp gỡ một lời kết giao. Gặp cơn bình địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em. Cũng là phận cải duyên kim, Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? Những là rày ước mai ao, Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình! Bây giờ gương vỡ lại lành, Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi. Còn duyên may lại còn người, Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa. Quả mai ba bảy đương vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì. Dứt lời nàng vội gạt đi Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ? Một lời tuy có ước xưa, Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều. Nói càng hổ thẹn trăm chiều, Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi! Chàng rằng Nói cũng lạ đời, Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao? Một lời đã trót thâm giao, Dưới dày có đất trên cao có trời! Dẫu rằng vật đổi sao dời, Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh! Duyên kia có phụ chi tình, Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai? Nàng rằng Gia thất duyên hài, Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng. Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng, Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa. Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa. Bấy chầy gió táp mưa sa. Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn. Còn chi là cái hồng nhan, Đã xong thân thế còn toan nỗi nào? Nghĩ mình chẳng hổ mình sao, Dám đem trần cấu dự vào bố kinh! Đã hay chàng nặng vì tình, Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru! Từ rày khép cửa phòng thu, Chẳng tu thì cũng như tu mới là! Chàng dù nghĩ đến tình xa, Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Nói chi kết tóc xe tơ, Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời! Chàng rằng Khéo nói nên lời, Mà trong lẽ phải có người có ta! Xưa nay trong đạo đàn bà, Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường, Có khi biến có khi thường, Có quyền nào phải một đường chấp kinh. Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời. Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Có điều chi nữa mà ngờ, Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu! Nghe chàng nói đã hết điều, Hai thân thì cũng quyết theo một bài. Hết lời khôn lẽ chối lời, Cúi đầu nàng những vắn dài thở than. Nhà vừa mở tiệc đoàn viên, Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là. Cùng nhau giao bái một nhà, Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi. Động phòng dìu dặt chén mồi, Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa. Những từ sen ngó đào tơ, Mười lăm năm mới bây giờ là đây! Tình duyên ấy hợp tan này, Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao. Canh khuya bức gấm rủ thao, Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân. Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình. Nàng rằng Phận thiếp đã đành, Có làm chi nữa cái mình bỏ đi! Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi, Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may. Riêng lòng đã thẹn lắm thay, Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi! Những như âu yếm vành ngoài, Còn toan mở mặt với người cho qua. Lại như những thói người ta, Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa. Khéo là giở nhuốc bày trò, Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi! Người yêu ta xấu với người, Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau! Cửa nhà dù tính về sau, Thì còn em đó lọ cầu chị đây. Chữ trinh còn một chút này, Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan! Còn nhiều ân ái chan chan, Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi? Chàng rằng Gắn bó một lời, Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau. Xót người lưu lạc bấy lâu, Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều! Thương nhau sinh tử đã liều, Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình. Chừng xuân tơ liễu còn xanh, Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân. Gương trong chẳng chút bụi trần, Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm! Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Nghe lời sửa áo cài trâm, Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng Thân tàn gạn đục khơi trong, Là nhờ quân tử khác lòng người ta. Mấy lời tâm phúc ruột rà, Tương tri dường ấy mới là tương tri! Chở che đùm bọc thiếu chi, Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay! Thoắt thôi tay lại cầm tay, Càng yêu vì nết càng say vì tình. Thêm nến giá nối hương bình, Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan. Tình xưa lai láng khôn hàn, Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa. Nàng rằng Vì mấy đường tơ, Lầm người cho đến bây giờ mới thôi! Ăn năn thì sự đã rồi! Nể lòng người cũ vâng lời một phen. Phím đàn dìu dặt tay tiên, Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa. Khúc đâu đầm ấm dương hòa, Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh. Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông! Lọt tai nghe suốt năm cung, Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao. Chàng rằng Phổ ấy tay nào, Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy? Tẻ vui bởi tại lòng này, Hay là khổ tận đến ngày cam lai? Nàng rằng Ví chút nghề chơi, Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu! Một phen tri kỷ cùng nhau, Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa. Chuyện trò chưa cạn tóc tơ, Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông. Tình riêng chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao. Cho hay thục nữ chí cao, Phải người tối mận sớm đào như ai? Hai tình vẹn vẽ hòa hai, Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ. Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên. Ba sinh đã phỉ mười nguyền, Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. Nhớ lời lập một am mây, Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên. Đến nơi đóng cửa cài then, Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà, Sư đà hái thuốc phương xa, Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu? Nặng vì chút nghĩa bấy lâu, Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai. Một nhà phúc lộc gồm hai, Ngàn năm dằng dặc quan giai lần lần. Thừa gia chẳng hết nàng Vân, Một cây cù mộc một sân quế hòe. Phong lưu phú quý ai bì, Vườn xuân một cửa để bia muôn đời Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Có đâu thiên vị người nào, Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai, Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần. Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh. Có thể thấy qua 3254 câu thơ Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc bấy giờ qua từng câu thơ. “Ma lực” các con chữ trong Truyện Kiều dường như có thể khiến người đọc cảm nhận được cảnh ngộ, thân phận, hạnh phúc, khổ đau của các nhân vật, đặc biệt là nàng Thúy Kiều. Sưu tầm Nguồn ảnh Internet Đây là 3254 câu thơ lục bát trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Bản Truyện Kiều này được chia thành 55 phần theo cách chia trong Truyện Kiều của Phạm Đan Quế. Mỗi câu thơ trong bản Truyện Kiều này, mình so sánh giữa các phiên bản Truyện Kiều khác nhau, và chọn ra những câu thơ phổ biến nhất nhiều phiên bản dùng. Nếu câu thơ nào các phiên bản Truyện Kiều dùng khác nhau, thì mình sẽ ghi chú bên cạnh. Quá trình soạn những chữ khác nhau giữa phiên bản, mình vẫn đang làm và sẽ cập nhật thường xuyên. 01 – Mở Đầu Tài Mệnh Ghét Nhau Trăm năm trong cõi người ta 0001 Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau 0002 – sắc – cợt Trải qua một cuộc bể dâu 0003 Những điều trông thấy mà đau đớn lòng 0004 – đã Lạ gì bỉ sắc tư phong 0005 – thử Trời xanh quen với má hồng đánh ghen 0006 – thói, mấy 02 – Gia Thế Và Tài Sắc Thúy Kiều Cảo thơm lần giở trước đèn 0007 Phong tình có lục còn truyền sử xanh 0008 – cổ Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh 0009 Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng 0010 Có nhà viên ngoại họ Vương 0011 Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung 0012 – nghỉ Một trai con thứ rốt lòng 0013 Vương Quan là chữ nối dòng nho gia 0014 Đầu lòng hai ả tố nga 0015 Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân 0016 Mai cốt cách tuyết tinh thần 0017 Một người một vẻ mười phân vẹn mười 0018 – Mỗi Vân xem trang trọng khác vời 0019 – tót Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang 0020 – lưng – người Hoa cười ngọc thốt đoan trang 0021 – nói Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da 0022 Kiều càng sắc sảo mặn mà 0023 So bề tài sắc lại là phần hơn 0024 Làn thu thuỷ nét xuân sơn 0025 – Gương – thấp, vết Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh 0026 Một hai nghiêng nước nghiêng thành 0027 – đôi Sắc đành đòi một tài đành họa hai 0028 – có Thông minh vốn sẵn tính trời 0029 Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm 0030 Cung thương làu bậc ngũ âm 0031 Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương 0032 Khúc nhà tay lựa nên chương 0033 Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân 0034 Phong lưu rất mực hồng quần 0035 Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê 0036 Êm đềm trướng rủ màn che 0037 Tường đông ong bướm đi về mặc ai 0038 03 – Hội Đạp Thanh Ngày xuân con én đưa thoi 0039 Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi 0040 Cỏ non xanh tận chân trời 0041 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa 0042 Thanh minh trong tiết tháng Ba 0043 Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh 0044 Gần xa nô nức yến anh 0045 Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân 0046 Dập dìu tài tử giai nhân 0047 Ngựa xe như nước áo quần như nêm 0048 Ngổn ngang gò đống kéo lên 0049 Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay 0050 Tà tà bóng ngả về tây 0051 Chị em thơ thẩn dan tay ra về 0052 Bước dần theo ngọn tiểu khê 0053 Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh 0054 Nao nao dòng nước uốn quanh 0055 Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang 0056 Sè sè nấm đất bên đàng 0057 Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh 0058 Rằng “Sao trong tiết Thanh minh 0059 Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?” 0060 Vương Quan mới dẫn gần xa 0061 “Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi 0062 Nổi danh tài sắc một thì 0063 Xôn xao ngoài cửa kém gì yến anh 0064 Kiếp hồng nhan có mong manh 0065 Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương 0066 Có người khách ở viễn phương 0067 Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi 0068 Thuyền tình vừa ghé đến nơi 0069 Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ 0070 Buồng không lặng ngắt như tờ 0071 Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh 0072 Khóc than khôn xiết sự tình 0073 Khéo vô duyên bấy là mình với ta 0074 Đã không duyên trước chăng mà 0075 Thì chi chút ước gọi là duyên sau 0076 Sắm sanh nếp tử xe châu 0077 Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa 0078 Trải bao thỏ lặn ác tà 0079 Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm” 0080 Lòng đâu sẵn mối thương tâm 0081 Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa 0082 “Đau đớn thay phận đàn bà 0083 Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung 0084 Phũ phàng chi bấy hoá công 0085 Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha 0086 Sống làm vợ khắp người ta 0087 Hại thay thác xuống làm ma không chồng 0088 Nào người phượng chạ loan chung 0089 Nào người tiếc lục tham hồng là ai? 0090 Đã không kẻ đoái người hoài 0091 Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương 0092 Gọi là gặp gỡ giữa đường 0093 Họa là người dưới suối vàng biết cho” 0094 Lầm rầm khấn khứa nhỏ to 0095 Sụp ngồi bạ cỏ trước mồ bước ra 0096 Một vùng cỏ áy bóng tà 0097 Gió hiu hiu thổi một và ngọn lau 0098 Rút trâm sẵn giắt mái đầu 0099 Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần 0100 Lại càng mê mẩn tâm thần 0101 Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra 0102 Lại càng ủ dột nét hoa 0103 Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài 0104 Vân rằng “Chị cũng nực cười 0105 Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” 0106 – sơ Rằng “Hồng nhan tự thuở xưa 0107 Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu 0108 Nỗi niềm tưởng đến mà đau 0109 Thấy người nằm đó biết sau thế nào ?” 0110 Quan rằng “Chị nói hay sao 0111 Một lời là một vận vào khó nghe 0112 Ở đây âm khí nặng nề 0113 Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa” 0114 Kiều rằng “Những đấng tài hoa 0115 Thác là thể phách còn là tinh anh 0116 Dễ hay tình lại gặp tình 0117 Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ!” 0118 Một lời nói chửa kịp thưa 0119 Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay 0120 Ào ào đổ lộc rung cây 0121 Ở trong dường có hương bay ít nhiều 0122 Đè chừng ngọn gió lần theo 0123 Dấu giày từng bước in rêu rành rành 0124 Mắt nhìn ai nấy đều kinh 0125 Nàng rằng “Này thực tinh thành chẳng xa 0126 Hữu tình ta lại gặp ta 0127 Chớ nề u hiển mới là chị em” 0128 Đã lòng hiển hiện cho xem 0129 Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời 0130 Lòng thơ lai láng bồi hồi 0131 Gốc cây lại vạch một bài cổ thi 0132 04 – Gặp Kim Trọng Dùng dằng nửa ở nửa về 0133 Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần 0134 Trông chừng thấy một văn nhân 0135 Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng 0136 Đề huề lưng túi gió trăng 0137 Sau chân theo một vài thằng con con 0138 Tuyết in sắc ngựa câu giòn 0139 Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời 0140 Nẻo xa mới tỏ mặt người 0141 Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình 0142 Hài văn lần bước dặm xanh 0143 Một vùng như thể cây quỳnh cành dao 0144 Chàng Vương quen mặt ra chào 0145 Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa 0146 Nguyên người quanh quất đâu xa 0147 Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh 0148 Nền phú quý bậc tài danh 0149 Văn chương nết đất thông minh tính trời 0150 Thiên tư tài mạo tót vời 0151 Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa 0152 Chung quanh vẫn đất nước nhà 0153 Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân 0154 Trộm nghe thơm nức hương lân 0155 Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều 0156 Nước non cách mấy buồng thêu 0157 Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng 0158 May thay giải cấu tương phùng 0159 Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa 0160 Bóng hồng nhác thấy nẻo xa 0161 Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai 0162 Người quốc sắc kẻ thiên tài 0163 Tình trong như đã mặt ngoài còn e 0164 Chập chờn cơn tỉnh cơn mê 0165 Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn 0166 Bóng tà như giục cơn buồn 0167 Khách đà lên ngựa người còn nghé theo 0168 Dưới cầu nước chảy trong veo 0169 Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha 0170 05 – Đạm Tiên Báo Mộng Kiều từ trở gót trướng hoa 0171 Mặt trời gác núi chiêng đà thu không 0172 Gương nga vành vạnh đầy song 0173 Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân 0174 Hải đường lả ngọn đông lân 0175 Giọt sương treo nặng cành xuân la đà 0176 Một mình lặng ngắm bóng nga 0177 Rộn đường gần với nỗi xa bời bời 0178 “Người mà đến thế thì thôi 0179 Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! 0180 Người đâu gặp gỡ làm chi 0181 Trăm năm biết có duyên gì hay không?” 0182 Ngổn ngang trăm mối bên lòng 0183 Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình 0184 Chênh chênh bóng nguyệt xế mành 0185 Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu 0186 Thoắt đâu thấy một tiểu kiều 0187 Có chiều phong vận có chiều thanh tân 0188 Sương in mặt tuyết pha thân 0189 Sen vàng lãng đãng như gần như xa 0190 Rước mừng đón hỏi dò la 0191 “Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?” 0192 Thưa rằng “Thanh khí xưa nay 0193 Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên? 0194 Hàn gia ở mé tây thiên 0195 Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu 0196 Mấy lòng hạ cố đến nhau 0197 Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng 0198 Vâng trình hội chủ xem tường 0199 Mà xem trong sổ đoạn trường có tên 0200 Âu đành quả kiếp nhân duyên 0201 Cũng người một hội một thuyền đâu xa 0202 Này mười bài mới mới ra 0203 Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời” 0204 Kiều vâng lĩnh ý đề bài 0205 Tay tiên một vẩy đủ mười khúc ngâm 0206 Xem thơ nức nở khen thầm 0207 “Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường 0208 Ví đem vào tập đoạn trường 0209 Thì treo giải nhất chi nhường cho ai” 0210 Thềm hoa khách đã trở hài 0211 Nàng còn cầm lại một hai tự tình 0212 Gió đâu sịch bức mành mành 0213 Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao 0214 Trông theo nào thấy đâu nào 0215 Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây 0216 Một mình lưỡng lự canh chầy 0217 Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh! 0218 Hoa trôi bèo dạt đã đành 0218 Biết duyên mình biết phận mình thế thôi! 0220 Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi 0221 Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn 0222 Giọng Kiều rền rĩ trướng loan 0223 Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì 0224 “Cớ sao trằn trọc canh khuya 0225 Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?” 0226 Thưa rằng “Chút phận ngây thơ 0227 Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền 0228 Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên 0229 Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao 0230 Đoạn trường là số thế nào 0231 Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia 0232 Cứ trong mộng triệu mà suy 0233 Phận con thôi có ra gì mai sau!” 0234 Dạy rằng “Mộng huyễn chắc đâu 0235 Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!” 0236 Vâng lời khuyên giải thấp cao 0237 Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương 0238 Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng 0239 Nách tường bông liễu bay sang láng giềng 0240 Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng 0241 Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình 0242 06 – Kim Trọng Tìm Đến Nhà Kiều Cho hay là giống hữu tình 0243 Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong! 0244 Chàng Kim từ lại thư song 0245 Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây 0246 Sầu đong càng khắc càng đầy 0247 Ba thu dồn lại một ngày dài ghê 0248 Mây Tần khóa kín song the 0249 Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao 0250 Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao 0251 Mặt mơ tưởng mặt lòng ngao ngán lòng 0252 Buồng văn hơi giá như đồng 0253 Trúc se ngón thỏ tơ chùng phím loan 0254 Mành Tương phất phất gió đàn 0255 Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình 0256 Ví chăng duyên nợ ba sinh 0257 Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi 0258 Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người 0259 Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi 0260 Một vùng cỏ mọc xanh rì 0261 Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu! 0262 Gió chiều như giục cơn sầu 0263 Vi lau hiu hắt như màu khảy trêu 0264 Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều 0265 Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang 0266 Thẳm nghiêm kín cổng cao tường 0267 Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh 0268 Lơ thơ tơ liễu buông mành 0269 Con oanh học nói trên cành mỉa mai 0270 Mấy lần cửa đóng then cài 0271 Dãy thềm hoa rụng biết người ở đâu? 0272 Tần ngần đứng suốt giờ lâu 0273 Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà 0274 Là nhà Ngô Việt thương gia 0275 Buồng không để đó người xa chưa về 0276 Lấy điều du học hỏi thuê 0277 Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang 0278 Có cây có đá sẵn sàng 0279 Có hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai 0280 Mừng thầm chốn ấy chữ bài 0281 Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây 0282 Song hồ nửa khép cánh mây 0283 Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông 0284 Tấc gang động khóa nguồn phong 0285 Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra 0286 07 – Kim Kiều Trao Thoa Đính Ước Nhẫn từ quán khách lân la 0287 Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai 0288 Cách tường phải buổi im trời 0289 Dưới đào dường có bóng người thướt tha 0290 Buông cầm xốc áo vội ra 0291 Hương còn thơm nức người đà vắng tanh 0292 Lần theo tường gấm dạo quanh 0293 Trên đào nhác thấy một cành kim thoa 0294 Giơ tay với lấy về nhà 0295 “Này trong khuê các đâu mà đến đây? 0296 Gẫm âu người ấy báu này 0297 Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm” 0298 Liền tay ngắm nghía biếng nằm 0299 Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai 0300 Tan sương đã thấy bóng người 0301 Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ 0302 Sinh đà có ý đợi chờ 0303 Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng 304 “Thoa này bắt được hư không 0305 Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?” 0306 Tiếng Kiều nghe lọt bên kia 0307 “Ơn lòng quân tử sá gì của rơi 0308 Chiếc thoa nào của mấy mươi 0309 Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao” 0310 Sinh rằng “Lân lý ra vào 0311 Gần đây nào phải người nào xa xôi 0312 Được rày nhờ chút thơm rơi 0313 Kể đà thiểu não lòng người bấy nay 0314 Bấy lâu mới được một ngày 0315 Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là” 0316 Vội về thêm lấy của nhà 0317 Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông 0318 Vén mây rón bước ngọn tường 0319 Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe? 0320 Sượng sùng giữ ý rụt rè 0321 Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu 0322 Rằng “Từ ngẫu nhĩ gặp nhau 0323 Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn 0324 Xương mai tính đã rũ mòn 0325 Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay 0326 Tháng tròn như gửi cung mây 0327 Trần trần một phận ấp cây đã liều 0328 Tiện đây xin một hai điều 0329 Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?” 0330 Ngần ngừ nàng mới thưa rằng” 0331 “Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong 0332 Dù khi lá thắm chỉ hồng 0333 Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha 0334 Nặng lòng xót liễu vì hoa 0335 Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa” 0336 Sinh rằng “Rày gió mai mưa 0337 Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi 0338 Dù chăng xét tấm tình si 0339 Thiệt đây mà có ích gì đến ai? 0340 Chút chi gắn bó một hai 0341 Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh 0342 Khuôn thiêng dù phụ tấc thành 0343 Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời 0344 Lượng xuân dù quyết hẹp hòi 0345 Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru” 0346 Lặng nghe lời nói như ru 0347 Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng 0348 Rằng “Trong buổi mới lạ lùng 0349 Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang? 0350 Đã lòng quân tử đa mang 0351 Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung” 0352 Được lời như cởi tấm lòng 0353 Giở kim châu với khăn hồng trao tay 0354 Rằng “Trăm năm cũng từ đây 0355 Của tin gọi một chút này làm ghi” 0356 Sẵn tay bả quạt hoa quỳ 0357 Với cành thoa ấy tức thì đổi trao 0358 Một lời gắn bó tất giao 0359 Mé sau dường có xôn xao tiếng người 0360 Vội vàng lá rụng hoa rơi 0361 Chàng về thư viện nàng dời lầu trang 0362 Từ phen đá biết tuổi vàng 0363 Tình càng thấm thía lòng càng ngẩn ngơ 0364 Sông Tương một dải nông sờ 0365 Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia 0366 Một tường tuyết chở sương che 0367 Tin xuân đâu dễ đi về cho năng 0368 08 – Kim Kiều Thề Nguyền Lần lần ngày gió đêm trăng 0369 Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua 0370 Ngày vừa sinh nhật ngoại gia 0371 Trên hai đường dưới nữa là hai em 0372 Tưng bừng sắm sửa áo xiêm 0373 Biện dâng một lễ xa đem tấc thành 0374 Nhà lan thanh vắng một mình 0375 Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay 0376 Thời trân thức thức sẵn bày 0377 Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường 0378 Cách hoa sẽ dắng tiếng vàng 0379 Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông 0380 “Trách lòng hờ hững với lòng 0381 Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu 0382 Những là đắp nhớ đổi sầu 0383 Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm” 0384 Nàng rằng “Gió bắt mưa cầm 0385 Đã cam tệ với tri âm bấy chầy 0386 Vắng nhà được buổi hôm nay 0387 Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng” 0388 Lần theo núi giả đi vòng 0389 Cuối tường dường có nẻo thông mới rào 0390 Sấn tay mở khóa động đào 0391 Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai 0392 Mặt nhìn mặt càng thêm tươi 0393 Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên 0394 Sánh vai về chốn thư hiên 0395 Ngâm lời phong nguyệt nặng nguyền non sông 0396 Trên yên bút giá thư đồng 0397 Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên 0398 Phong sương được vẻ thiên nhiên 0399 Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi 0400 Sinh rằng “Phác họa vừa rồi 0401 Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa” 0402 Tay tiên gió táp mưa sa 0403 Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu 0404 Khen “Tài nhả ngọc phun châu 0405 Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này 0406 Kiếp tu xưa ví chưa dày 0407 Phúc nào đổi được giá này cho ngang” 0408 Nàng rằng “Trộm liếc dung quang 0409 Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn 0410 Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn 0411 Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay? 0412 Nhớ từ năm hãy thơ ngây 0413 Có người tướng sĩ đoán ngay một lời 0414 Anh hoa phát tiết ra ngoài 0415 Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa 0416 Trông người lại ngẫm đến ta 0417 Một dày một mỏng biết là có nên?” 0418 Sinh rằng “Giải cấu là duyên 0419 Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều 0420 Ví dù giải kết đến điều 0421 Thì đem vàng đá mà liều với thân” 0422 Đủ điều trung khúc ân cần 0423 Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng 0424 Ngày vui ngắn chẳng đầy gang 0425 Trông ra ác đã ngậm gương non đoài 0426 Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai 0427 Giã chàng nàng mới kíp dời song sa 0428 09 – Sang Nhà Kim Trọng Lần II Đến nhà vừa thấy tin nhà 0429 Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về 0430 Cửa ngoài vội rủ rèm the 0431 Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình 0432 Nhặt thưa gương gối đầu cành 0433 Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu 0434 Sinh vừa tựa án thiu thiu 0435 Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê 0436 Tiếng sen sẽ động giấc hòe 0437 Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần 0438 Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần 0439 Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng 0440 Nàng rằng “Khoảng vắng đêm trường 0441 Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa 0442 Bây giờ rõ mặt đôi ta 0443 Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?” 0444 Vội mừng làm lễ rước vào 0445 Đài sen nối sáp song đào thêm hương 0446 Tiên thề cùng thảo một chương 0447 Tóc mây một món dao vàng chia đôi 0448 Vầng trăng vằng vặc giữa trời 0449 Đinh ninh hai miệng một lời song song 0450 Tóc tơ căn vặn tấc lòng 0451 Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương 0452 Chén hà sánh giọng quỳnh tương 0453 Dải là hương lộn bình gương bóng lồng 0454 Sinh rằng “Gió mát trăng trong 0455 Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam 0456 Chày sương chưa nện cầu Lam 0457 Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?” 0458 Nàng rằng “Hồng diệp xích thằng 0459 Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri 0460 Đừng điều nguyệt nọ hoa kia 0461 Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai 0462 10 – Đàn Cho Kim Trọng Lần I Rằng “Nghe nổi tiếng cầm đài 0463 Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ” 0464 Thưa rằng “Tiện kỹ sá chi 0465 Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng” 0466 Hiên sau treo sẵn cầm trăng 0467 Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày 0468 Nàng rằng Nghề mọn riêng tay 0469 Làm chi cho nặng lòng này lắm thân” 0470 So dần dây vũ dây văn 0471 Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương 0472 Khúc đâu Hán Sở chiến trường 0473 Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau 0474 Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu 0475 Nghe ra như oán như sầu phải chăng? 0476 Kê Khang này khúc Quảng Lăng 0477 Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân 0478 Quá quan này khúc Chiêu Quân 0479 Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia 0480 Trong như tiếng hạc bay qua 0481 Đục như tiếng suối mới sa nửa vời 0482 Tiếng khoan như gió thoảng ngoài 0483 Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa 0484 Ngọn đèn khi tỏ khi mờ 0485 Khiến người ngồi đấy mà ngơ ngẩn sầu 0486 Khi tựa gối khi cúi đầu 0487 Khi vò chín khúc khi chau đôi mày 0488 Rằng “Hay thì thật là hay 0489 Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào 0490 Lựa chi những bậc tiêu tao 0491 Dột lòng mình cũng nao nao lòng người” 0492 Rằng “Quen mất nết đi rồi 0493 Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao 0494 Lời vàng vâng lĩnh ý cao 0495 Họa dần dần bớt chút nào được không?” 0496 Hoa hương càng tỏ thức hồng 0497 Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu 0498 Sóng tình dường đã xiêu xiêu 04959 Xem trong âu yếm có chiều lả lơi 0500 Thưa rằng “Đừng lấy làm chơi 0501 Dẽ cho thưa hết một lời đã nao 0502 Vẻ chi một đóa yêu đào 0503 Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh 0504 Đã cho vào bậc bố kinh 0505 Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu 0506 Ra tuồng trên Bộc trong dâu 0507 Thì con người ấy ai cầu làm chi 0508 Phải điều ăn xổi ở thì 0509 Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày 0510 Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay 0511 Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương 0512 Mây mưa đánh đổ đá vàng 0513 Quá chiều nên đã chán chường yến anh 0514 Trong khi chắp cánh liền cành 0515 Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên 0516 Mái Tây để lạnh hương nguyền 0517 Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng 0518 Gieo thoi trước chẳng giữ giàng 0519 Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai? 0520 Vội chi liễu ép hoa nài 0521 Còn thân ắt lại đền bồi có khi” 0522 Thấy lời đoan chính dễ nghe 0523 Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân 0524 Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân 0525 Tin đâu đã đến cửa ngăn gọi vào 0526 Nàng thì vội trở buồng thêu 0527 Sinh thì rảo bước sân đào bước ra 0528 11 – Tiễn Kim Trọng Về Liêu Dương Cửa sài vừa ngỏ then hoa 0529 Gia đồng vào gửi thư nhà mới sang 0530 Đem tin thúc phụ từ đường 0531 Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề 0532 Liêu Dương cách trở sơn khê 0533 Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang 0534 Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng 0535 Băng mình lẻn trước đài trang tự tình 0536 Gót đầu mọi nỗi đinh ninh 0537 Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi 0538 Sự đâu chưa kịp đôi hồi 0539 Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ 0540 Trăng thề còn đó trơ trơ 0541 Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng 0542 Ngoài nghìn dặm chốc ba đông 0543 Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy 0544 Gìn vàng giữ ngọc cho hay 0545 Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời” 0546 Tai nghe ruột rối bời bời 0547 Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau 0548 “Ông tơ ghét bỏ chi nhau 0549 Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi 0550 Cùng nhau trót đã nặng lời 0551 Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ 0552 Quản bao tháng đợi năm chờ 0553 Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm 0554 Đã nguyền hai chữ đồng tâm 0555 Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai 0556 Còn non còn nước còn dài 0557 Còn về còn nhớ đến người hôm nay” 0558 Dùng dằng chưa nỡ rời tay 0559 Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà 0560 Ngại ngùng một bước một xa 0561 Một lời trân trọng châu sa mấy hàng 0562 Buộc yên quẩy gánh vội vàng 0563 Mối sầu sẻ nửa bước đường chia hai 0564 Buồn trông phong cảnh quê người 0565 Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa 0566 Não người cữ gió tuần mưa 0567 Một ngày nặng gánh tương tư một ngày 0568 Nàng thì đứng tựa hiên tây 0569 Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ 0570 Trông chừng khói ngất song thưa 0571 Hoa trôi dạt thắm liễu xơ xác vàng 0572 12 – Gia Biến Tần ngần dạo gót lầu trang 0573 Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về 0574 Hàn huyên chưa kịp dã dề 0575 Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao 0576 Người nách thước kẻ tay đao 0577 Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi 0578 Già giang một lão một trai 0579 Một dây vô loại buộc hai thâm tình 0580 Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh 0581 Rụng rời giọt liễu tan tành cội mai 0582 Đồ tế nhuyễn của riêng tây 0583 Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham 0584 Điều đâu bay buộc ai làm 0585 Này ai đan rập giật dàm bỗng dưng? 0586 Hỏi ra sau mới biết rằng 0587 Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ 0588 Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ 0589 Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây 0590 Hạ từ van lạy suốt ngày 0591 Điếc tai lân tuất phũ tay tồi tàn 0592 Rường cao rút ngược dây oan 0593 Dẫu là đá cũng nát gan lọ người 0594 Mặt trông đau đớn rụng rời 0595 Oan này còn một kêu trời nhưng xa 0596 Một ngày lạ thói sai nha 0597 Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền 0598 13 – Bán Mình Chuộc Cha Sao cho cốt nhục vẹn tuyền 0599 Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao 0600 Duyên hội ngộ đức cù lao 0601 Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn? 0602 Để lời thệ hải minh sơn 0603 Làm con trước phải đền ơn sinh thành. 0604 Quyết tình nàng mới hạ tình 0605 “Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha” 0606 Họ Chung có kẻ lại già 0607 Cũng trong nha dịch lại là từ tâm 0608 Thấy nàng hiếu trọng tình thâm 0609 Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay 0610 Tính bài lót đó luồn đây 0611 Có ba trăm lạng việc này mới xuôi 0612 Hãy về tạm phó giam ngoài 0613 Dặn nàng quy liệu trong đôi ba ngày 0614 Thương tình con trẻ thơ ngây 0615 Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ 0616 Đau lòng tử biệt sinh ly 0617 Thân còn chẳng tiếc tiếc gì đến duyên 0618 Hạt mưa sá nghĩ phận hèn 0619 Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân 0620 14 – Mã Giám Sinh Mua Kiều Sự lòng ngỏ với băng nhân 0621 Tin sương đồn đại xa gần xôn xao 0622 Gần miền có một mụ nào 0623 Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh 0624 Hỏi tên, rằng “Mã Giám Sinh” 0625 Hỏi quê, rằng “Huyện Lâm Thanh cũng gần” 0626 Quá niên trạc ngoại tứ tuần 0627 Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao 0628 Trước thầy sau tớ xôn xao 0629 Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang 0630 Ghế trên ngồi tót sỗ sàng 0631 Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra 0632 Nỗi mình thêm tức nỗi nhà 0633 Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng 0634 Ngại ngùng rợn gió e sương 0635 Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày 0636 Mối càng vén tóc bắt tay 0637 Nét buồn như cúc điệu gầy như mai 0638 Đắn đo cân sắc cân tài 0639 Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ 0640 Mặn nồng một vẻ một ưa 0641 Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu 0641 Rằng “Mua ngọc đến Lam Kiều 0643 Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?” 0644 Mối rằng “Giá đáng nghìn vàng 0645 Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài” 0646 Cò kè bớt một thêm hai 0647 Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm 0648 Một lời thuyền đã êm dầm 0649 Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi 0650 Định ngày nạp thái vu quy 0651 Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong 0652 Một lời cậy với Chung Công 0653 Khất từ tạm lĩnh Vương Ông về nhà 0654 15 – Hoàn Thành Hôn Thú Thương tình con trẻ cha già 0655 Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu 0656 “Nuôi con những ước về sau 0657 Trao tơ phải lứa gieo cầu đáng nơi 0658 Trời làm chi cực bấy trời 0659 Này ai vu thác cho người hợp tan 0660 Búa rìu bao quản thân tàn 0661 Nỡ đày đọa trẻ càng oan khốc già 0662 Một lần sau trước cũng là 0663 Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau” 0664 Theo lời càng chảy dòng châu 0665 Liều mình ông đã gieo đầu tường vôi 0666 Vội vàng kẻ giữ người coi 0667 Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can 0668 “Vẻ chi một mảnh hồng nhan 0669 Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành 0670 Dâng thư đã thẹn nàng Oanh 0671 Lại thua ả Lý bán mình hay sao? 0672 Cỗi xuân tuổi hạc càng cao 0673 Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành 0674 Lượng trên dù chẳng dứt tình 0675 Gió mưa âu hẳn tan tành nước non 0676 Thà rằng liều một thân con 0677 Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây 0678 Phận sao đành vậy cũng vầy 0679 Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh 0680 Cũng đừng tính quẩn toan quanh 0681 Tan nhà là một thiệt mình là hai” 0682 Phải lời, ông cũng êm tai 0683 Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang 0684 Mái ngoài họ Mã vừa sang 0685 Tờ hoa đã ký cân vàng mới trao 0686 Trăng già độc địa làm sao 0687 Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên 0688 Trong tay đã sẵn đồng tiền 0689 Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì 0690 Họ Chung ra sức giúp vì 0691 Lễ tâm đã đặt tụng kỳ cũng xong 0692 16 – Trao Duyên Việc nhà đã tạm thong dong 0693 Tinh kỳ giục giã đã mong độ về 0694 Một mình nương ngọn đèn khuya 0695 Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu 0696 “Phận dầu dầu vậy cũng dầu 0697 Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời 0698 Công trình kể biết mấy mươi 0699 Vì ta khăng khít cho người dở dang 0700 Thề hoa chưa ráo chén vàng 0701 Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa 0702 Trời Liêu non nước bao xa 0703 Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi 0704 Biết bao duyên nợ thề bồi 0705 Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì 0706 Tái sinh chưa dứt hương thề 0707 Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai 0708 Nợ tình chưa trả cho ai 0709 Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan” 0710 Nỗi riêng riêng những bàn hoàn 0711 Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn 0712 Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân 0713 Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han 0714 “Cơ trời dâu bể đa đoan 0715 Một nhà để chị riêng oan một mình 0716 Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh 0717 Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?” 0718 Rằng “Lòng đương thổn thức đầy 0719 Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong 0720 Hở môi ra cũng thẹn thùng 0721 Để lòng thì phụ tấm lòng với ai 0722 Cậy em em có chịu lời 0723 Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa 0724 Giữa đường đứt gánh tương tư 0725 Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em 0726 Kể từ khi gặp chàng Kim 0727 Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề 0728 Sự đâu sóng gió bất kỳ 0729 Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? 0730 Ngày xuân em hãy còn dài 0731 Xót tình máu mủ thay lời nước non 0732 Chị dù thịt nát xương mòn0733 Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây” 0734 Chiếc vành với bức tờ mây 0735 Duyên này thì giữ vật này của chung 0736 Dù em nên vợ nên chồng 0737 Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên 0738 Mất người còn chút của tin 0739 Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa 0740 Mai sau dù có bao giờ 0741 Đốt lò hương ấy so tơ phím này 0742 Trông ra ngọn cỏ lá cây 0743 Thấy hiu hiu gió thì hay chị về 0744 Hồn còn mang nặng lời thề 0745 Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai 0746 Dạ đài cách mặt khuất lời 0747 Rước xin chén nước cho người thác oan 0748 Bây giờ trâm gãy gương tan 0749 Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân? 0750 Trăm nghìn gửi lạy tình quân 0751 Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi 0752 Phận sao phận bạc như vôi? 0753 Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng 0754 Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! 0755 Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” 0756 Cạn lời hồn dứt máu say 0757 Một hơi lặng ngắt đôi tay lạnh đồng 0758 Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng 0759 Một nhà vây lớp kẻ trong người ngoài 0760 Kẻ thang người thuốc bời bời 0761 Mới dàu cơn vựng chưa phai giọt hồng 0762 Hỏi “Sao ra sự lạ lùng? 0763 Kiều càng nức nở mở không ra lời 0764 Nỗi nàng Vân mới rỉ tai 0765 “Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây” 0766 “Này cha làm lỗi duyên mày 0767 Thôi thì nỗi ấy sau này đã em 0768 Vì ai rụng cải rơi kim 0769 Để con bèo nổi mây chìm vì ai? 0770 Lời con dặn lại một hai 0771 Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng” 0772 Lạy thôi nàng lại thưa chiềng 0773 “Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi 0774 Sá chi thân phận tôi đòi 0775 Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu.” 0776 17 – Đến Trú Phường Xiết bao kể nỗi thảm sầu 0777 Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi 0778 Kiệu hoa đâu đã đến ngoài 0779 Quản huyền đâu đã giục người sinh ly 0780 Đau lòng kẻ ở người đi 0781 Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm 0782 Trời hôm mây kéo tối rầm 0783 Dàu dàu ngọn cỏ đầm đầm cành sương 0784 Rước nàng về đến trú phường 0785 Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong 0786 Ngập ngừng thẹn lục e hồng 0787 Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen 0788 “Phẩm tiên rơi đến tay hèn 0789 Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai 0790 Biết thân đến bước lạc loài 0791 Nhị đào thà bẻ cho người tình chung 0792 Vì ai ngăn đón gió đông 0793 Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi 0794 Trùng phùng dù họa có khi 0795 Thân này thôi có còn gì mà mong 0796 Đã sinh ra số long đong 0797 Còn mang lấy nghiệp má hồng được sao?” 0798 Trên yên sẵn có con dao 0799 Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn 0800 “Phòng khi nước đã đến chân 0801 Dao này thì liệu với thân sau nàỵ” 0802 Đêm thu một khắc một chầy 0803 Bâng khuâng như tỉnh như say một mình. 0804 18 – Con Ong Đã Tỏ Đường Đi Lối Về Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh 0805 Vẫn là một đứa phong tình đã quen 0806 Quá chơi lại gặp hồi đen 0807 Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa 0808 Lầu xanh có mụ Tú Bà 0809 Làng chơi đã trở về già hết duyên 0810 Tình cờ chẳng hẹn mà nên 0811 Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường 0812 Chung lưng mở một ngôi hàng 0813 Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề 0814 Dạo tìm khắp chợ thì quê 0815 Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi 0816 Rủi may âu cũng sự trời 0817 Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên 0818 Xót nàng chút phận thuyền quyên 0819 Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn 0820 Mẹo lừa đã mắc vào khuôn 0821 Sính nghi rẻ giá nghênh hôn sẵn ngày 0822 Mừng thầm “Cờ đã đến tay 0823 Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng 0824 “Đã nên quốc sắc thiên hương 0825 Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa 0826 Về đây nước trước bẻ hoa 0827 Vương tôn quý khách ắt là đua nhau 0828 Hẳn ba trăm lạng kém đâu 0829 Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời” 0830 Miếng ngon kề đến tận nơi 0831 Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham 0832 “Đào tiên đã bén tay phàm 0833 Thì vin cành quít cho cam sự đời 0834 Dưới trần mấy mặt làng chơi 0835 Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa 0836 Nước vỏ lựu máu mào gà 0837 Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên 0838 Mập mờ đánh lận con đen 0839 Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? 0840 Mụ già hoặc có điều gì 0841 Liều công mất một buổi quỳ mà thôi 0842 Vả đây đường sá xa xôi 0843 Mà ta bất động nữa người sinh nghi.” 0844 Tiếc thay một đóa trà mi 0845 Con ong đã mở đường đi lối về 0846 Một cơn mưa gió nặng nề 0847 Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương 0848 Tiệc xuân một giấc mơ màng 0849 Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ 0850 Giọt riêng tầm tã tuôn mưa 0851 Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình 0852 “Tuồng chi là giống hôi tanh 0853 Thân nghìn vàng để ô danh má hồng 0854 Thôi còn chi nữa mà mong 0855 Đời người thôi thế là xong một đời” 0856 Giận duyên tủi phận bời bời 0857 Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh 0858 Nghĩ đi nghĩ lại một mình 0859 “Một mình thì chớ hai tình thì sao? 0860 Sau dù sinh sự thế nào 0861 Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân 0862 Nỗi mình âu cũng giãn dần 0863 Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi” 0864 Những là đo đắn ngược xuôi 0865 Tiếng gà nghe đã gáy sôi mé tường. 0866 19 – Đường Đến Lâm Tri Lầu mai vừa rúc còi sương 0867 Mã sinh giục dạo vội vàng ra đi 0868 Đoạn trường thay lúc phân kỳ 0869 Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh 0870 Bề ngoài mười dặm trường đình 0871 Vương Ông mở tiệc tiễn hành đưa theo 0872 Ngoài thì chủ khách dập dìu 0873 Một nhà huyên với một Kiều ở trong 0874 Nhìn càng lã chã giọt hồng 0875 Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao 0876 “Hổ sinh ra phận tơ đào 0877 Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong 0878 Lỡ làng nước đục bụi trong 0879 Trăm năm để một tấm lòng từ đây 0880 Xem gương trong bấy nhiêu ngày 0881 Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già 0882 Khi về bỏ vắng trong nhà 0883 Khi vào dùi dắng khi ra vội vàng 0884 Khi ăn khi nói lỡ làng 0885 Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh 0886 Khác màu kẻ quý người thanh 0887 Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn 0888 Thôi con còn nói chi con 0889 Sống nhờ đất khách thác chôn quê người” 0890 Vương Bà nghe bấy nhiêu lời 0891 Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên 0892 Vài tuần chưa cạn chén khuyên 0893 Mé ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe 0894 Xót con lòng nặng trì trì 0895 Trước yên ông đã nằn nì thấp cao 0896 “Chút thân yếu liễu thơ đào 0897 Dớp nhà đến nỗi dấn vào tôi ngươi 0898 Từ đây góc bể chân trời 0899 Nắng mưa thui thủi quê người một thân 0900 Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân 0901 Tuyết sương che chở cho thân cát đằng” 0902 Cạn lời khách mới thưa rằng 0903 “Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao 0904 Mai sau dầu đến thế nào 0905 Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần” 0906 Đùng đùng gió giục mây vần 0907 Một xe trong cõi hồng trần như bay 0908 Trông vời gạt lệ phân tay 0909 Góc trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm 0910 Nàng thì dặm khách xa xăm 0911 Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây 0912 Vi lô san sát hơi may 0913 Một trời thu để riêng ai một người 0914 Dặm khuya ngất tạnh mù khơi 0915 Thấy trăng mà thẹn những lời non sông 0916 Rừng thu từng biếc chen hồng 0917 Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. 0918 20 – Vào Lầu Xanh Lần I Những là lạ nước lạ non 0919 Lâm Tri vừa một tháng tròn tới nơi 0920 Xe châu dừng bánh cửa ngoài 0921 Rèm trong đã thấy một người bước ra 0922 Thoắt trông lờn lợt màu da 0923 Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao? 0924 Trước xe lơi lả han chào 0925 Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi 0926 Bên thì mấy ả mày ngài 0927 Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi 0928 Giữa thì hương nến hẳn hoi 0929 Trên treo một tượng trắng đôi lông mày 930 Lầu xanh quen lối xưa nay 0931 Nghề này thì lấy ông này tiên sư 0932 Hương hôm hoa sớm phụng thờ 0933 Cô nào xấu vía cho thưa mối hàng 0934 Cởi xiêm lột áo sỗ sàng 0935 Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm 0936 Đổi hoa lót xuống chiếu nằm 0937 Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi 0938 Kiều còn ngơ ngẩn biết gì 0939 Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay 0940 “Cửa hàng buôn bán cho may 0941 Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu 0942 Muôn nghìn người thấy cũng yêu 0943 Xôn xao oanh yến dập dìu trúc mai 0944 Tin nhạn vẩn lá thư bài 0945 Đưa người cửa trước rước người cửa sau” 0946 Lạ tai nghe chửa biết đâu 0947 Xem tình ra cũng những màu dở dang 0948 Lễ xong hương hỏa gia đường 0949 Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay 0950 Dạy rằng “Con lạy mẹ đây 0951 Lạy rồi thì lạy cậu mày bên kia” 0952 Nàng rằng “Phải bước lưu ly 0953 Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh 0954 Điều đâu lấy yến làm anh 0955 Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì 0956 Đủ điều nạp thái vu quy 0957 Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi 0958 Giờ ra thay bậc đổi ngôi 0959 Dám xin gửi lại một lời cho minh” 0960 Mụ nghe nàng nói hay tình 0961 Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên 0962 “Này này sự đã quả nhiên 0963 Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi 0964 Bảo rằng đi dạo lấy người 0965 Đem về rước khách kiếm lời mà ăn 0966 Tuồng vô nghĩa ở bất nhân 0967 Buồn mình trước đã tần mần thử chơi 0968 Màu hồ đã mất đi rồi 0969 Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma 0970 Con kia đã bán cho ta 0971 Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây 0972 Lão kia có giở bài bây 0973 Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe 0974 Cớ sao chịu tốt một bề 0975 Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao 0976 Phải làm cho biết phép tao” 0977 Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay 0978 Nàng rằng “Trời thẳm đất dày 0979 Thân này đã bỏ những ngày ra đi 0980 Thôi thì thôi có tiếc gì” 0981 Sẵn dao tay áo tức thì giở ra 0982 Sợ gan nát ngọc liều hoa 0983 Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay 0984 Thương ôi tài sắc mực này 0985 Một dao oan nghiệt dứt dây phong trần. 0986 21 – Tú Bà Dỗ Kiều Ra Lầu Ngưng Bích Nỗi oan vỡ lở xa gần 0987 Trong nhà người chật một lần như nêm 0988 Nàng thì bằn bặt giấc tiên 0989 Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay 0990 Vực nàng vào chốn hiên tây 0991 Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men 0992 Nào hay chưa hết trần duyên 0993 Trong mê dường đã đứng bên một nàng 0994 Rỉ rằng “Nhân quả dở dang 0995 Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao 0996 Số còn nặng nghiệp má đào 0997 Người dù muốn quyết trời nào đã cho 0998 Hãy xin hết kiếp liễu bồ 0999 Sông Tiền Đường đó hẹn hò về sau” 1000 Thuốc thang suốt một ngày thâu 1001 Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan 1002 Tú Bà chực sẵn bên màn 1003 Dịu lời khuyên giải mơn man gỡ dần 1004 Một người dễ có mấy thân 1005 Hoa xuân đương nhụy ngày xuân còn dài 1006 Cũng là lỡ một lầm hai 1007 Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây 1008 Lỡ chân trót đã vào đây 1009 Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non 1010 Người còn thì của hãy còn 1011 Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà 1012 Làm chi tội báo oan gia 1013 Thiệt mình mà hại đến ta hay gì” 1014 Kề tai mấy nỗi nằn nì 1015 Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi 1016 Vả trong thần mộng mấy lời 1017 Túc nhân thì cũng có trời ở trong 1018 Kiếp này nợ trả chưa xong 1019 Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau 1020 Lặng nghe ngẫm nghĩ gót đầu 1021 Thưa rằng “Ai có muốn đâu thế này 1022 Được như lời thế là may 1023 Hẳn rằng mai có như rày cho chăng 1024 Sợ khi ong bướm đãi đằng 1025 Đến điều sống đục sao bằng thác trong” 1026 Mụ rằng “Con hãy thong dong 1027 Phải điều lòng lại đổi lòng mà chơi 1028 Mai sau ở chẳng như lời 1029 Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi” 1030 Thấy lời quyết đoán hẳn hoi 1031 Đành lòng nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần 1032 Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân 1033 Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung 1034 Bốn bề bát ngát xa trông 1035 Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia 1036 Bẽ bàng mây sớm đèn khuya 1037 Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng 1038 Tưởng người dưới nguyệt chén đồng 1039 Tin sương luống hãy rày trông mai chờ 1040 Bên trời góc bể bơ vơ 1041 Tấm son gột rửa bao giờ cho phai 1042 Xót người tựa cửa hôm mai 1043 Quạt nồng đắp lạnh những ai đó giờ? 1044 Sân Lai cách mấy nắng mưa 1045 Có khi gốc tử đã vừa người ôm 1046 Buồn trông cửa bể chiều hôm 1047 Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa 1048 Buồn trong ngọn nước mới sa 1049 Hoa trôi man mác biết là về đâu 1050 Buồn trông nội cỏ dàu dàu 1051 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh 1052 Buồn trông gió cuốn mặt duềnh 1053 Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. 1054 22 – Mắc Lừa Sở Khanh Chung quanh những nước non người 1055 Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu 1056 Ngậm ngùi rủ bức rèm châu 1057 Cách lầu nghe có tiếng đâu họa vần 1058 Một chàng vừa trạc thanh xuân 1059 Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng 1060 Nghĩ rằng cũng mạch thư hương 1061 Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh 1062 Bóng nga thấp thoáng dưới mành 1063 Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai 1064 “Than ôi! Sắc nước hương trời 1065 Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây 1066 Giá đành trong nguyệt trên mây 1067 Hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa 1068 Sốt gan riêng giận trời già 1069 Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng 1070 Thuyền quyên ví biết anh hùng 1071 Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi” 1072 Song thu đã khép cánh ngoài 1073 Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh 1074 Nghĩ người thôi lại nghĩ mình 1075 Cảm lòng chua xót lạt tình bơ vơ 1076 Những là lần lữa nắng mưa 1077 Kiếp phong trần biết bao giờ là thôi 1078 Đánh liều nhắn một hai lời 1079 Nhờ tay tế độ với người trầm luân 1080 Mảnh tiên kể hết xa gần 1081 Nỗi nhà báo đáp nỗi thân lạc loài 1082 Tan sương vừa rạng ngày mai 1083 Tiện hồng nàng mới nhắn lời gởi sang 1084 Trời tây lãng đãng bóng vàng 1085 Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi 1086 Mở xem một bức tiên mai 1087 Rành rành tích việt có hai chữ đề 1088 Lấy trong ý tứ mà suy 1089 “Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng?” 1090 Chim hôm thoi thót về rừng 1091 Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành 1092 Tường đông lay động bóng cành 1093 Đẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào 1094 Sượng sùng đánh dạn ra chào 1095 Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần 1096 Rằng “Tôi bèo bọt chút thân 1097 Lạc đường mang lấy nợ nần yến anh 1098 Dám nhờ cốt nhục tử sinh 1099 Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau” 1100 Lặng ngồi tủm tỉm gật đầu 1101 “Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng 1102 Nàng đà biết đến ta chăng 1103 Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi” 1104 Nàng rằng “Muôn sự ơn người 1105 Thế nào xin quyết một bài cho xong” 1106 Rằng “Ta có ngựa truy phong 1107 Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi 1108 Thừa cơ lẻn bước ra đi 1109 Ba mươi sáu chước chước gì là hơn 1110 Dù khi gió kép mưa đơn 1111 Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì” 1112 Nghe lời nàng đã sinh nghi 1113 Song đà quá đỗi quản gì được thân 1114 Cũng liều nhắm mắt đưa chân 1115 Mà xem con tạo xoay vần đến đâu 1116 Cùng nhau lẻn bước xuống lầu 1117 Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn 1118 Đêm thu khắc lậu canh tàn 1119 Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương 1120 Lối mòn cỏ lợt màu sương 1121 Lòng quê đi một bước đường một đau. 1122 23 – Bị Tú Bà Bắt Tiếng gà xao xác gáy mau 1123 Tiếng người đâu đã mé sau dậy dàng 1124 Nàng càng thổn thức gan vàng 1125 Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào 1126 Một mình khôn biết làm sao 1127 Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng 1128 Hóa nhi thật có nỡ lòng 1129 Làm chi giày tía vò hồng lắm nau 1130 Một đoàn đổ đến trước sau 1131 Vuốt đâu xuống đất cánh đâu lên trời 1132 Tú Bà tốc thẳng đến nơi 1133 Hằm hằm áp điệu một hơi lại nhà 1134 Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra 1135 Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời 1136 Thịt da ai cũng là người 1137 Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau 1138 Hết lời thú phục khẩn cầu 1139 Uốn lưng thịt đổ cất đầu máu sa 1140 Rằng “Tôi chút phận đàn bà 1141 Nước non lìa cửa lìa nhà đến đây 1142 Bây giờ sống chết ở tay 1143 Thân này đã đến thế này thì thôi 1144 Nhưng tôi có sá chi tôi 1145 Phận tôi đành vậy vốn người để đâu 1146 Thân lươn bao quản lấm đầu 1147 Chút lòng trinh bạch từ sau cũng chừa” 1148 Được lời mụ mới tùy cơ 1149 Bắt người bảo lãnh làm tờ cung chiêu 1150 Bày vai có ả Mã Kiều 1151 Xót nàng ra mới đánh liều chịu đoan 1152 Mụ càng kể nhặt kể khoan 1153 Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha. 1154 24 – Lấy Thân Mà Trả Nợ Đời Vực nàng vào nghỉ trong nhà 1155 Mã Kiều lại hở ý ra dặn lời 1156 “Thôi đà mắc lận thì thôi 1157 Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh 1158 Bạc tình nổi tiếng lầu xanh 1159 Một tay chôn biết mấy cành phù dung 1160 Đà đao lập sẵn chước dùng 1161 Lạ gì một cốt một đồng xưa nay 1162 Có ba mươi lạng trao tay 1163 Không dưng chi có chuyện này trò kia 1164 Rồi ra trở mặt tức thì 1165 Bớt lời liệu chớ sân si thiệt đời” 1166 Nàng rằng “Thề thốt nặng lời 1167 Có đâu mà lại ra người hiểm sâu 1168 Còn đương suy trước nghĩ sau 1169 Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào 1170 Sở Khanh lên tiếng rêu rao 1171 “Dọ nghe mới có con nào ở đây 1172 Phao cho quyến gió rủ mây 1173 Hãy xem có biết mặt mày là ai” 1174 Nàng rằng “Thôi thế thì thôi 1175 Rằng không thì cũng vâng lời rằng không” 1176 Sở Khanh quát mắng đùng đùng 1177 Bước vào vừa rắp thị hùng ra tay 1178 Nàng rằng “Trời nhé có hay 1179 Quyến anh rủ yến sự này tại ai 1180 Đem người đẩy xuống giếng thơi 1181 Nói lời rồi lại ăn lời được ngay 1182 Còn tiên tích việt ở tay 1183 Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai” 1184 Lời ngay đông mặt trong ngoài 1185 Kẻ chê bất nghĩa người cười vô lương 1186 Phụ tình án đã rõ ràng 1187 Dơ tuồng nghỉ mới kiếm đường tháo lui 1188 Buồng riêng riêng những sụt sùi 1189 Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân 1190 “Tiếc thay trong giá trắng ngần 1191 Đến phong trần cũng phong trần như ai 1192 Tẻ vui cũng một kiếp người 1193 Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru 1194 Kiếp xưa đã vụng đường tu 1195 Kiếp nay chẳng kẻo đền bù mới xuôi 1196 Dẫu sao bình đã lỡ rơi 1197 Lấy thân mà trả nợ đời cho xong”. 1198 25 – Tú Bà Dạy Nghề Vừa tuần nguyệt rạng gương trong 1199 Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò 1200 “Nghề chơi cũng lắm công phu 1201 Làng chơi ta phải biết cho đủ điều 1202 Nàng rằng “Mây gió dập dìu 1203 Liều thân thì cũng phải liều thế thôi 1204 Mụ rằng “Ai cũng như ai 1205 Người ta ai mất tiền hoài đến đây 1206 Ở trong còn lắm điều hay 1207 Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung 1208 Này con thuộc lấy làm lòng 1209 Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề 1210 Chơi cho liễu chán hoa chê 1211 Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời 1212 Khi khóe hạnh khi nét ngài 1213 Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa 1214 Đều là nghề nghiệp trong nhà 1215 Đủ ngần ấy nết mới là người soi” 1216 Gót đầu vâng dạy mấy lời 1217 Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng 1218 Những nghe nói đã thẹn thùng 1219 Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe 1220 Tủi mình cửa các buồng khuê 1221 Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay 1222 Khéo là mặt dạn mày dày 1223 Kiếp người đã đến thế này thì thôi 1224 Thương thay thân phận lạc loài 1225 Dẫu sao cũng ở tay người biết sao 1226 Lầu xanh mới rủ trướng đào 1227 Càng treo giá ngọc càng cao phẩm người 1228 Biết bao bướm lả ong lơi 1229 Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm 1230 Dập dìu lá gió cành chim 1231 Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh 1232 Khi tỉnh rượu lúc tàn canh 1233 Giật mình mình lại thương mình xót xa 1234 Khi sao phong gấm rủ là 1235 Giờ sao tan tác như hoa giữa đường 1236 Mặt sao dày gió dạn sương 1237 Thân sao bướm chán ong chường bấy thân 1238 Mặc người mưa Sở mây Tần 1239 Những mình nào biết có xuân là gì 1240 Đòi phen gió tựa hoa kề 1241 Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu 1242 Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu 1243 Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ 1244 Đôi phen nét vẽ câu thơ 1245 Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa 1246 Vui là vui gượng kẻo là 1247 Ai tri âm đó mặn mà với ai 1248 Thờ ơ gió trúc mưa mai 1249 Ngẩn ngơ trăm nỗi dùi mài một thân 1250 Ôm lòng đòi đoạn xa gần 1251 Chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau 1252 Nhớ ơn chín chữ cao sâu 1253 Một ngày một ngả bóng dâu tà tà 1254 Dặm nghìn nước thẳm non xa 1255 Nghĩ đâu thân phận con ra thế này 1256 Sân hòe đôi chút thơ ngây 1257 Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình 1258 Nhớ lời nguyện ước ba sinh 1259 Xa xôi ai có thấu tình chăng ai 1260 Khi về hỏi liễu Chương Đài 1261 Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay 1262 Tình sâu mong trả nghĩa dày 1263 Hoa kia đã chắp cây này cho chưa 1264 Mối tình đòi đoạn vò tơ 1265 Giấc hương quan luống lần mơ canh dài 1266 Song sa vò võ phương trời 1267 Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng 1268 Lần lần thỏ bạc ác vàng 1269 Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn 1270 Đã cho lấy chữ hồng nhan 1271 Làm cho cho hại cho tàn cho cân 1272 Đã đày vào kiếp phong trần 12730 Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi. 1274 26 – Thúc Sinh Chuộc Kiều Khách du bỗng có một người 1275 Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương 1276 Vốn người huyện Tích châu Thường 1277 Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri 1278 Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi 1279 Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào 1280 Trướng tô giáp mặt hoa đào 1281 Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa 1282 Hải đường mơn mởn cành tơ 1283 Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng 1284 Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng 1285 Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng 1286 Lạ gì thanh khí lẽ hằng 1287 Một dây một buộc ai giằng cho ra 1288 Sớm đào tối mận lân la 1289 Trước còn trăng gió sau ra đá vàng 1290 Dịp đâu may mắn lạ dường 1291 Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê 1292 Sinh càng một tỉnh mười mê 1293 Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân 1294 Khi gió gác khi trăng sân 1295 Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ 1296 Khi hương sớm khi trà trưa 1297 Bàn vây điểm nước đường tơ hòa đàn 1298 Miệt mài trong cuộc truy hoan 1299 Càng quen thuộc nết càng dan díu tình 1300 Lạ cho cái sóng khuynh thành 1301 Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi 1302 Thúc Sinh quen nết bốc rời 1303 Trăm nghìn đổ một trận cười như không 1304 Mụ càng tô lục chuốt hồng 1305 Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê 1306 Dưới trăng quyên đã gọi hè 1307 Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông 1308 Buồng the phải buổi thong dong 1309 Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa 1310 Rõ ràng trong ngọc trắng ngà 1311 Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên 1312 Sinh càng tỏ nét càng khen 1313 Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường 1314 Nàng rằng “Vâng biết lòng chàng 1315 Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu 1316 Hay hèn lẽ cũng nối điêu 1317 Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang 1318 Lòng còn gửi áng mây vàng 1319 Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay” 1320 Rằng “Sao nói lạ lùng thay 1321 Cành kia chẳng phải cội này mà ra” 1322 Nàng càng ủ dột thu ba 1323 Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh 1324 “Thiếp như hoa đã lìa cành 1325 Chàng như con bướm liệng vành mà chơi 1326 Chúa xuân đành đã có nơi 1327 Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi” 1328 Sinh rằng “Từ thuở tương tri 1329 Tấm riêng riêng những nặng vì nước non 1330 Trăm năm tính cuộc vuông tròn 1331 Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” 1332 Nàng rằng “Muôn đội ơn lòng 1333 Chút e bên thú bên tòng dễ đâu 1334 Bình Khang nấn ná bấy lâu 1335 Yêu hoa yêu được một màu điểm trang 1336 Rồi ra lạt phấn phai hương 1337 Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng? 1338 Vả trong thềm quế cung trăng 1339 Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong 1340 Bấy lâu khăng khít dải đồng 1341 Thêm người người cũng chia lòng riêng tây 1342 Vẻ chi chút phận bèo mây 1343 Làm cho bể ái khi đầy khi vơi 1344 Trăm điều ngang ngửa vì tôi 1345 Thân sau ai chịu tội trời ấy cho 1346 Như chàng có vững tay co 1347 Mười phần cũng đắp điếm cho một vài 1348 Thế trong dù lớn hơn ngoài 1349 Trước hàm sư sử gửi người đằng la 1350 Cúi đầu luồn xuống mái nhà 1351 Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng 1352 Ở trên còn có nhà thung 1353 Lượng trên trông xuống biết lòng có thương? 1354 Sá chi liễu ngõ hoa tường 1355 Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh 1356 Lại càng dơ dáng dại hình 1357 Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng 1358 Thương sao cho vẹn thì thương 1359 Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng” 1360 Sinh rằng “Hay nói đè chừng 1361 Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao 1362 Đường xa chớ ngại Ngô Lào 1363 Trăm điều hãy cứ trông vào một ta 1364 Đã gần chi có điều xa 1365 Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều” 1366 Cùng nhau căn vặn đến điều 1367 Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời 1368 Nỉ non đêm ngắn tình dài 1369 Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương 1370 Mượn điều trúc viện thừa lương 1371 Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi 1372 Chiến hòa sắp sẵn hai bài 1373 Cậy tay thầy thợ mượn người dò la 1374 Bắn tin đến mặt Tú Bà 1375 Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao 1376 Rõ ràng của dẫn tay trao 1377 Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công 1378 Công tư hai lẽ đều xong 1379 Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai 1380 Một nhà sum họp trúc mai 1381 Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông 1382 Hương càng đượm lửa càng nồng 1383 Càng xuê vẻ ngọc càng lồng màu sen. 1384 27 – Ra Trước Cửa Công Nửa năm hơi tiếng người quen 1385 Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng 1386 Giậu thu vừa nảy giò sương 1387 Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi 1388 Phong lôi nổi trận bời bời 1389 Nặng lòng e ấp tính bài phân chia 1390 Quyết nghe biện bạch một bề 1391 Dạy cho má phấn lại về lầu xanh 1392 Thấy lời nghiêm huấn rành rành 1393 Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu 1394 Rằng “Con biết tội đã nhiều 1395 Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam 1396 Trót vì tay đã nhúng chàm 1397 Dại rồi còn biết khôn làm sao đây 1398 Cùng nhau vả tiếng một ngày 1399 Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành 1400 Lượng trên quyết chẳng thương tình 1401 Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi” 1402 Thấy lời sắt đá tri tri 1403 Sốt gan ông mới cáo quỳ cửa công 1404 Đất bằng nổi sóng đùng đùng 1405 Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra 1406 Cùng nhau thẹo gót sai nha 1407 Song song vào trước sân hoa lạy quỳ 1408 Trông lên mặt sắt đen sì 1409 Lập nghiêm trước hãy ra uy nặng lời 1410 “Gã kia dại nết chơi bời 1411 Mà con người thế là người đong đưa 1412 Tuồng chi hoa thải hương thừa 1413 Mượn màu son phấn đánh lừa con đen 1414 Suy trong tình trạng nguyên đơn 1415 Bề nào thì cũng chưa yên bề nào 1416 Phép công chiếu án luận vào 1417 Có hai đường ấy muốn sao mặc mình 1418 Một là cứ phép gia hình 1419 Một là lại cứ lầu xanh phó về” 1420 Nàng rằng “Đã quyết một bề 1421 Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần 1422 Đục trong thân cũng là thân 1423 Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình” 1424 Dạy rằng “Cứ phép gia hình” 1425 Ba cây chập lại một cành mẫu đơn 1426 Phận đành chi dám kêu oan 1427 Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày 1428 Một sân lầm cát đã đầy 1429 Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương 1430 Nghĩ tình chàng Thúc mà thương 1431 Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa 1432 Khóc rằng “Oan khốc vì ta 1433 Có nghe mình trước chẳng đà lụy sau 1434 Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu 1435 Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai” 1436 Phủ đường nghe thoảng vào tai 1437 Động lòng lại gạn đến lời riêng tây 1438 Sụt sùi chàng mới thưa ngay 1439 Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân 1440 “Nàng đà tính hết xa gần 1441 Từ xưa nàng đã biết thân có rày 1442 Tại tôi hứng lấy một tay 1443 Để nàng cho đến nỗi này vì tôi” 1444 Nghe lời nói cũng thương lời 1445 Dẹp uy mới dạy mở bài giải vi 1446 Rằng “Như hẳn có thế thì 1447 Trăng hoa song cũng thị phi biết điều” 1448 Sinh rằng “Chút phận bọt bèo 1449 Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên” 1450 Cười rằng “Đã thế thì nên 1451 Mộc già hãy thử một thiên trình nghề” 1452 Nàng vâng cất bút tay đề 1453 Tiên hoa trình trước án phê xem tường 1454 Khen rằng “Giá lướt Thịnh Đường 1455 Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân 1456 Thực là tài tử giai nhân 1457 Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn 1458 Thôi đừng rước dữ cưu hờn 1459 Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung 1460 Đã đưa đến trước cửa công 1461 Ngoài thì là lý song trong là tình 1462 Dâu con trong đạo gia đình 1463 Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong” 1464 Kíp truyền sắm sửa lễ công 1465 Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao 1466 Bày hàng cổ xúy xôn xao 1467 Song song đưa tới trướng đào sánh đôi 1468 Thương vì hạnh trọng vì tài 1469 Thúc Ông thôi cũng dẹp lời phong ba 1470 Huệ lan sực nức một nhà 1471 Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa. 1472 28 – Tiễn Thúc Sinh Về Thăm Nhà Mảng vui rượu sớm cờ trưa 1473 Đào đà phai thắm sen vừa nảy xanh 1474 Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh 1475 E tình nàng mới bày tình riêng chung 1476 “Phận bồ từ vẹn chữ tòng 1477 Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên 1478 Tin nhà ngày một vắng tin 1479 Mặn tình cát lũy lạt tình tao khang 1480 Nghĩ ra thật cũng nên đường 1481 Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta 1482 Trộm nghe kẻ lớn trong nhà 1483 Ở vào khuôn phép nói ra mối rường 1484 E thay những dạ phi thường 1485 Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông 1486 Mà ta suốt một năm ròng 1487 Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào 1488 Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao 1489 Hoặc là trong có làm sao chăng là 1490 Xin chàng liệu kíp lại nhà 1491 Trước người đẹp ý sau ta biết tình 1492 Đêm ngày giữ mực giấu quanh 1493 Rày lần mai lữa như hình chưa thông” 1494 Nghe lời khuyên nhủ thong dong 1495 Đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang 1496 Rạng ra gửi đến xuân đường 1497 Thúc Ông cũng vội giục chàng ninh gia 1498 Tiễn đưa một chén quan hà 1499 Xuân đình thoắt đã dọn ra Cao đình 1500 Sông Tần một dải xanh xanh 1501 Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan 1502 Cầm tay dài ngắn thở than 1503 Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời 1504 Nàng rằng “Non nước xa khơi 1505 Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm 1506 Dễ lòa yếm thắm trôn kim 1507 Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng 1508 Đôi ta chút nghĩa đèo bồng 1509 Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh 1510 Dù khi mưa gió bất bình 1511 Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi 1512 Hơn điều giấu ngược giấu xuôi 1513 Lại mang những việc tày trời đến sau 1514 Thương nhau xin nhớ lời nhau 1515 Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy 1516 Chén đưa nhớ bữa hôm nay 1517 Chén mừng xin đợi ngày này năm sau” 1518 Người lên ngựa kẻ chia bào 1519 Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san 1520 Dặm hồng bụi cuốn chinh an 1521 Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh 1522 Người về chiếc bóng năm canh 1523 Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi 1524 Vầng trăng ai xẻ làm đôi 1525 Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường. 1526 29 – Hoạn Thư Đón Thúc Sinh Kể chi những nỗi dọc đường 1527 Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà 1528 Vốn dòng họ Hoạn danh gia 1529 Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư 1530 Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa 1531 Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày 1532 Ở ăn thì nết cũng hay 1533 Nói điều dàm buộc thì tay cũng già 1534 Từ nghe vườn mới thêm hoa 1535 Miệng người đã lắm tin nhà thì không 1536 Lửa tâm càng dập càng nồng 1537 Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa 1538 “Ví bằng thú thật cùng ta 1539 Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên 1540 Dại chi chẳng giữ lấy nền 1541 Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình 1542 Lại còn bưng bít giấu quanh 1543 Làm chi những thói trẻ ranh nực cười 1544 Tính rằng cách mặt khuất lời 1545 Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho 1546 Lo gì việc ấy mà lo 1547 Kiến trong miệng chén có bò đi đâu 1548 Làm cho nhìn chẳng được nhau 1549 Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên 1550 Làm cho trông thấy nhãn tiền 1551 Cho người thăm ván bán thuyền biết tay” 1552 Nỗi lòng kín chẳng ai hay 1553 Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài 1554 Tuần sau bỗng thấy hai người 1555 Mách tin ý cũng liệu bài tâng công 1556 Tiểu thư nổi giận đùng đùng 1557 “Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi 1558 Chồng tao nào phải như ai 1559 Điều này hẳn miệng những người thị phi” 1560 Vội vàng xuống lệnh ra uy 1561 Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng 1562 Trong ngoài kín mít như bưng 1563 Nào ai còn dám nói năng một lời 1564 Buồng đào khuya sớm thảnh thơi 1565 Ra vào một mực nói cười như không 1566 Đêm ngày lòng những dặn lòng 1567 Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên 1568 Lời tan hợp nỗi hàn huyên 1569 Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng 1570 Tẩy trần vui chén thong dong 1571 Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra 1572 Chàng về xem ý tứ nhà 1573 Sự mình cũng rắp lân la giãi bày 1574 Mấy phen cười nói tỉnh say 1575 Tóc tơ bất động mảy may sự tình 1576 Nghĩ đà bưng kín miệng bình 1577 Nào ai có khảo mà mình lại xưng 1578 Những là e ấp dùng dằng 1579 Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi 1580 Có khi vui chuyện mua cười 1581 Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu 1582 Rằng “Trong ngọc đá vàng thau 1583 Mười phân ta đã tin nhau cả mười 1584 Khen cho những miệng dông dài 1585 Bướm ong lại đặt những lời nọ kia 1586 Thiếp dù vụng chẳng hay suy 1587 Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười” 1588 Thấy lời thủng thỉnh như chơi 1589 Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn 1590 Những là cười phấn cợt son 1591 Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai 1592 Thú quê thuần vược vén mùi 1593 Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô 1594 Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ 1595 Một màu quan tái mấy mùa gió trăng 1596 Tình riêng chưa dám rỉ răng 1597 Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua 1598 “Cách năm mây bạc xa xa 1599 Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn” 1600 Được lời như mở tấc son 1601 Vó câu thẳng ruổi nước non quê người 1602 Long lanh đáy nước in trời 1603 Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng 1604 Roi câu vừa gióng dặm trường 1605 Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh 1606 Thưa nhà huyên hết mọi tình 1607 Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen 1608 Nghĩ rằng “Giận ghẻ hờn ghen 1609 Xấu chàng mà có ai khen chi mình 1610 Vậy nên ngảnh mặt làm thinh 1611 Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày 1612 Lâm Tri đường bộ tháng chầy 1613 Mà đường hải đạo sang ngay thì gần 1614 Dọn thuyền lựa mặt gia nhân 1615 Hãy đem dây xích buộc chân nàng về 1616 Làm cho cho mệt cho mê 1617 Làm cho đau đớn ê chề cho coi 1618 Trước cho bõ ghét những người 1619 Sao cho để một trò cười về sau” 1620 Phu nhân khen chước rất màu 1621 Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay 1622 Sửa sang buồm gió lèo mây 1623 Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang 1624 Dặn dò hết các mọi đường 1625 Thuận phong một lá vượt sang biển Tề. 1626 30 – Bị Bắt Cóc – Thúc Sinh Gọi Hồn Nàng từ chiếc bóng song the 1627 Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu 1628 Bóng dâu đã xế ngang đầu 1629 Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi 1630 Tóc thề đã chấm ngang vai 1631 Nào lời non nước nào lời sắt son 1632 Sắn bìm chút phận cỏn con 1633 Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? 1634 Thân sao nhiều nỗi bất bằng 1635 Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao 1636 Đêm thu gió lọt song đào 1637 Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời 1638 Nén hương đến trước Phật đài 1639 Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân 1640 Dưới hoa dậy lũ ác nhân 1641 Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra 1642 Đầy sân gươm tuốt sáng lòa 1643 Thất kinh nàng chửa biết là làm sao 1644 Thuốc mê đâu đã tưới vào 1645 Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì 1646 Vực ngay lên ngựa tức thì 1647 Buồng đào viện sách bốn bề lửa dong 1648 Sẵn thây vô chủ bên sông 1649 Đem vào để đó lận sòng ai hay 1650 Tôi đòi phách lạc hồn bay 1651 Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình 1652 Thúc Ông nhà cũng gần quanh 1653 Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời 1654 Tớ thầy chạy thẳng đến nơi 1655 Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao 1656 Gió cao ngọn lửa càng cao 1657 Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu 1658 Hớt hơ hớt hải nhìn nhau 1659 Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng 1660 Chạy vào chốn cũ phòng hương 1661 Trong than thấy một đống xương cháy tàn 1662 Ngay tình ai biết mưu gian 1663 Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai 1664 Thúc Ông sùi sụt ngắn dài 1665 Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na 1666 Di hài nhặt sắp về nhà 1667 Nào là khâm liệm nào là tang trai 1668 Lễ thường đã đủ một hai 1669 Lục trình chàng cũng đến nơi bây giờ 1670 Bước vào chốn cũ lầu thơ 1671 Tro than một đống nắng mưa bốn tường 1672 Sang nhà cha tới trung đường 1673 Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên 1674 Hỡi ôi nói hết sự duyên 1675 Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan 1676 Gieo mình vật vã khóc than 1677 “Con người thế ấy thác oan thế này 1678 Chắc rằng mai trúc lại vầy 1679 Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau” 1680 Thương càng nghĩ nghĩ càng đau 1681 Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây 1682 Gần miền nghe có một thầy 1683 Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền 1684 Trên tam đảo dưới cửu tuyền 1685 Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng 1686 Sắm sanh lễ vật rước sang 1687 Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han 1688 Đạo nhân phục trước tĩnh đàn 1689 Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương 1690 Trở về minh bạc nói tường 1691 Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra 1692 “Người này nặng kiếp oan gia 1693 Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho 1694 Mệnh cung đang mắc nạn to 1695 Một năm nữa mới thăm dò được tin 1696 Hai bên giáp mặt chiền chiền 1697 Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay” 1698 Nghe lời nói lạ dường này 1699 Sự nàng đã thế lời thầy dám tin 1700 Chẳng qua đồng cốt quàng xiên 1701 Người đâu mà lại thấy trên cõi trần 1702 Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân 1703 Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên. 1704 31 – Ở Nhà Hoạn Bà Nước trôi hoa rụng đã yên 1705 Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian 1706 Khuyển Ưng đã đắt mưu gian 1707 Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền 1708 Buồm cao lèo thẳng cánh suyền 1709 Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang 1710 Giã đò lên trước sảnh đường 1711 Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công 1712 Vực nàng tạm xuống môn phòng 1713 Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai 1714 Hoàng lương nghe tỉnh hồn mai 1715 Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây 1716 Bàng hoàng dở tỉnh dở say 1717 Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu 1718 A hoàn trên dưới giục mau 1719 Hãi hùng nàng mới theo sau một người 1720 Ngước trông tòa rộng dãy dài 1721 “Thiên quan trủng tể” có bài treo trên 1722 Ban ngày sáp thắp hai bên 1723 Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà 1724 Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra 1725 Sự mình nàng đã cứ mà gửi thưa 1726 Bất tình nổi trận mây mưa 1727 Nhiếc rằng “Những giống bơ thờ quen thân 1728 Con này chẳng phải thiện nhân 1729 Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng 1730 Ra tuồng mèo mả gà đồng 1731 Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào 1732 Đã đem mình bán cửa tao 1733 Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này 1734 Nào là gia pháp nọ bay 1735 Hãy cho ba chục biết tay một lần” 1736 A hoàn trên dưới dạ rân 1737 Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào 1738 Trúc côn ra sức đập vào 1739 Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng khinh 1740 Xót thay đào lý một cành 1741 Một phen mưa gió tan tành một phen 1742 Hoa nô truyền dạy đổi tên 1743 Phòng đào dạy ép vào phiên thị tì 1744 Ra vào theo lũ thanh y 1745 Dãi dầu tóc rối da chì quản bao 1746 Quản gia có một mụ nào 1747 Thấy người thấy nết ra vào mà thương 1748 Khi chè chén khi thuốc thang 1749 Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh 1750 Dạy rằng “May rủi đã đành 1751 Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay 1752 Cũng là oan nghiệp chi đây 1753 Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng 1754 Ở đây tai vách mạch rừng 1755 Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi 1756 Kẻo khi sấm sét bất kỳ 1757 Con ong cái kiến kêu gì được oan” 1758 Nàng càng giọt ngọc như chan 1759 Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây 1760 “Phong trần kiếp đã chịu đầy 1761 Lầm than lại có thứ này bằng hai 1762 Làm sao bạc chẳng vừa thôi 1763 Chằng chằng buộc mãi lấy người hồng nhan 1764 Đã đành túc trái tiền oan 1765 Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi” 1766 Những là nương náu qua thì 1767 Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia 1768 Mẹ con trò chuyện lân la 1769 Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời 1770 “Tiểu thư dưới trướng thiếu người 1771 Cho về bên ấy theo đòi lầu trang” 1772 Lĩnh lời nàng mới theo sang 1773 Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu 1774 Sớm khuya khăn mặt lược đầu 1775 Phận con hầu giữ con hầu dám sai 1776 Phải đêm êm ả chiều trời 1777 Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày 1778 Lĩnh lời nàng mới lựa dây 1779 Nỉ non thánh thót dễ say lòng người 1780 Tiểu thư xem cũng thương tài 1781 Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân 1782 Cửa người đày đọa chút thân 1783 Sớm năn nỉ bóng khuya ngơ ngẩn lòng 1784 Lâm Tri chút nghĩa đèo bòng 1785 Nước non để chữ tương phùng kiếp sau 1786 Bốn phương mây trắng một màu 1787 Trông vời cố quốc biết đâu là nhà 1788 Lần lần tháng lụn ngày qua 1789 Nỗi gần nào biết đường xa thế này. 1790 32 – Hoạn Thư Hành Hạ Kiều Lâm Tri từ thuở uyên bay 1791 Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân 1792 Mày xanh trăng mới in ngần 1793 Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa 1794 Sen tàn cúc lại nở hoa 1795 Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân 1796 Tìm đâu cho thấy cố nhân 1797 Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương 1798 Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương 1799 Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê 1800 Tiểu thư đón cửa dã dề 1801 Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa 1802 Nhà hương cao cuốn bức là 1803 Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng 1804 Bước ra một bước một dừng 1805 Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa 1806 “Phải rằng nắng quáng đèn lòa 1807 Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh 1808 Bây giờ tình mới rõ tình 1809 Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai 1810 Chước đâu có chước lạ đời 1811 Người đâu mà lại có người tinh ma 1812 Rõ ràng thật lứa đôi ta 1813 Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi 1814 Bề ngoài thơn thớt nói cười 1815 Mà trong nham hiểm giết người không dao 1816 Bây giờ đất thấp trời cao 1817 Ăn làm sao nói làm sao bây giờ” 1818 Càng trông mặt càng ngẩn ngơ 1819 Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời 1820 Sợ uy dám chẳng vâng lời 1821 Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều 1822 Sinh đà phách lạc hồn xiêu” 1823 “Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây 1824 Nhân làm sao đến thế này 1825 Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi 1826 Sợ quen dám hở ra lời 1827 Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa 1828 Tiểu thư trông mặt hỏi tra 1829 “Mới về có việc chi mà động dong?” 1830 Sinh rằng “Hiếu phục vừa xong 1831 Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên” 1832 Khen rằng “Hiếu tử đã nên 1833 Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu” 1834 Vợ chồng chén tạc chén thù 1835 Bắt nàng đứng trực trì hồ hai nơi 1836 Bắt khoan bắt nhặt đến lời 1837 Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay 1838 Sinh càng như dại như ngây 1839 Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi 1840 Dửng đi chợt nói chợt cười 1841 Cáo say chàng đã dạm bài lảng ra 1842 Tiểu thư vội thét “Con Hoa! 1843 Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn” 1844 Sinh càng nát ruột tan hồn 1845 Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay 1846 Tiểu thư cười nói tỉnh say 1847 Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi 1848 Rằng “Hoa nô đủ mọi tài 1849 Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe” 1850 Nàng đà tán hoán tê mê 1851 Vâng lời ra trước bình the vặn đàn 1852 Bốn dây như khóc như than 1853 Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng 1854 Cùng trong một tiếng tơ đồng 1855 Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm 1856 Giọt châu lã chã khôn cầm 1857 Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương 1858 Tiểu thư lại nẹt lấy nàng 1859 “Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi 1860 Sao chẳng biết ý tứ gì 1861 Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi” 1862 Sinh càng thảm thiết bồi hồi 1863 Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua 1864 Giọt rồng canh đã điểm ba 1865 Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm 1866 Lòng riêng khấp khởi mừng thầm 1867 “Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay” 1868 Sinh thì gan héo ruột đầy 1869 Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng 1870 Người vào chung gối loan phòng 1871 Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài 1872 Bây giờ mới rõ tăm hơi 1873 Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen 1874 Chước đâu rẽ thúy chia uyên 1875 Ai ra đường nấy ai nhìn được ai 1876 Bây giờ một vực một trời 1877 Hết điều khinh trọng hết lời thị phi 1878 Nhẹ như bấc nặng như chì 1879 Gỡ cho ra nợ còn gì là duyên 1880 Lỡ làng chút phận thuyền quyên 1881 Bể sâu sóng cả có tuyền được vay 1882 Một mình âm ỉ đêm chầy 1883 Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh. 1884 33 – Đi Tu Ở Quan Âm Các Sớm khuya hầu hạ đài doanh 1885 Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra 1886 Lựa lời nàng mới thưa qua 1887 “Phải khi mình lại xót xa nỗi mình” 1888 Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh 1889 Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao” 1890 Sinh đà rát ruột như bào 1891 Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang 1892 Những e lại lụy đến nàng 1893 Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra 1894 Cúi đầu quỳ trước sân hoa 1895 Thân cung nàng mới thảo qua một tờ 1896 Diện tiền trình với tiểu thư 1897 Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình 1898 Liền tay trao lại Thúc Sinh 1899 Rằng “Tài nên trọng mà tình nên thương 1900 Ví chăng có số giàu sang 1901 Giá mà dẫu đúc nhà vàng cũng nên 1902 Bể trần chìm nổi thuyền quyên 1903 Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời” 1904 Sinh rằng “Thật có như lời 1905 Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay 1906 Nghìn xưa âu cũng thế này 1907 Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa” 1908 Tiểu thư rằng “Ý trong tờ 1909 Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không 1910 Thôi thì thôi cũng chiều lòng 1911 Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra 1912 Sẵn Quan Âm các vườn ta 1913 Có cây trăm thước có hoa bốn mùa 1914 Có cổ thụ có sơn hồ 1915 Cho nàng ra đó giữ chùa tụng kinh” 1916 Tưng tưng trời mới bình minh 1917 Hương hoa ngũ cúng sắm sanh lễ thường 1918 Đưa chàng đến trước Phật đường 1919 Tam quy ngũ giới cho nàng xuất gia 1920 Áo xanh đổi lấy cà sa 1921 Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền 1922 Sớm khuya tính đủ dầu đèn 1923 Xuân Thu cắt sẵn hai tên hương trà. 1924 34 – Tình Tự Với Thúc Sinh – Hoạn Thư Bắt Gặp Nàng từ lánh dấu vườn hoa 1925 Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng 1926 Nhân duyên đâu lại còn mong 1927 Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi 1928 Phật tiền thảm lấp sầu vùi 1929 Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương 1930 Cho hay giọt nước cành dương 1931 Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên 1932 Sồng nâu từ trở màu thiền 1933 Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu 1934 Quan phòng then nhặt lưới mau 1935 Nói lời trước mặt rơi châu vắng người 1936 Gác kinh viện sách đôi nơi 1937 Trong gang tấc lại gấp mười quan san 1938 Những là ngậm thở ngùi than 1939 Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà 1940 Thừa cơ Sinh mới lẻn ra 1941 Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng 1942 Sụt sùi giở nỗi đoạn trường 1943 Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh 1944 “Đã cam chịu bạc với tình 1945 Chúa xuân để tội một mình cho hoa 1946 Thấp cơ thua trí đàn bà 1947 Trông vào đau ruột nói ra ngại lời 1948 Vì ta cho lụy đến người 1949 Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân xanh 1950 Quản chi trên các dưới duềnh 1951 Cũng toan sống thác với tình cho xong 1952 Tông đường chút chửa cam lòng 1953 Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai 1954 Thẹn mình đá nát vàng phai 1955 Trăm thân dễ chuộc một lời được sao” 1956 Nàng rằng “Chiếc bách sóng đào 1957 Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may 1958 Chút thân quằn quại vũng lầy 1959 Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao 1960 Cũng liều một hạt mưa rào 1961 Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay 1962 Chút vì cầm đã bén dây 1963 Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta 1964 Liệu bài mở cửa cho ra 1965 Ấy là tình nặng ấy là ân sâu” 1966 Sinh rằng “Riêng tưởng bấy lâu 1967 Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường 1968 Nữa khi giông tố phũ phàng 1969 Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây 1970 Liệu mà cao chạy xa bay 1971 Ái ân ta có ngần này mà thôi 1972 Bây giờ kẻ ngược người xuôi 1973 Biết bao giờ lại nối lời nước non 1974 Dẫu rằng sông cạn đá mòn 1975 Con tằm đến chết cũng còn vương tơ” 1976 Cùng nhau kể lể sau xưa 1977 Nói rồi lại nói lời chưa hết lời 1978 Mặt trông tay chẳng nỡ rời 1979 Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa 1980 Nhịn ngừng nuốt tủi đứng ra 1981 Tiểu thư đâu đã gót hoa bước vào 1982 Cười cười nói nói ngọt ngào 1983 Hỏi “Chàng mới ở chốn nào lại chơi?” 1984 Dối quanh Sinh mới liệu lời 1985 “Tìm hoa quá bước xem người viết kinh” 1986 Khen rằng “Bút pháp đã tinh 1987 So vào với thiếp Lan Đình nào thua 1988 Tiếc thay lưu lạc giang hồ 1989 Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài” 1990 Thiền trà cạn nước hồng mai 1991 Thong dong nối gót thư trai cùng về 1992 Nàng càng e lệ ủ ê 1993 Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau 1994 Hoa rằng “Bà đến đã lâu 1995 Rón chân đứng nép độ đâu nửa giờ 1996 Rành rành kẽ tóc chân tơ 1997 Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường 1998 Bao nhiêu đoạn khổ tình thương 1999 Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than 2000 Ngăn tôi đứng lại một bên 2001 Chán tai rồi mới bước lên trên lầu” 2002 Nghe thôi kinh hãi xiết đâu 2003 “Đàn bà thế ấy thấy âu một người 2004 Ấy mới gan ấy mới tài 2005 Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời 2006 Người đâu sâu sắc nước đời 2007 Mà chàng Thúc phải ra người bó tay 2008 Thực tang bắt được dường này 2009 Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng 2010 Thế mà im chẳng đãi đằng 2011 Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng 2012 Giận dầu ra dạ thế thường 2013 Cười này mới thực khôn lường hiểm sâu 2014 Thân ta ta phải lo âu 2015 Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này 2016 Ví chăng chắp cánh cao bay 2017 Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa 2018 Phận bèo bao quản nước sa 2019 Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh 2020 Chỉn e quê khách một mình 2021 Tay không chưa dễ tìm vành ấm no” 2022 Nghĩ đi nghĩ lại quanh co 2023 Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân 2024 Bên mình giắt để hộ thân 2025 Lần nghe canh đã một phần trống ba 2026 Cất mình qua ngọn tường họa 2027 Lần đường theo bóng trăng tà về tâỵ. 2028 35 – Ở Chiêu Ẩn Am Mịt mù dặm cát đồi cây 2029 Tiếng gà điếm cỏ dấu giày cầu sương 2030 Canh khuya thân gái dặm trường 2031 Phần e đường sá phần thương dãi dầu 2032 Trời đông vừa rạng ngàn dâu 2033 Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà 2034 Chùa đâu trông thấy nẻo xa 2035 Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài 2036 Xăm xăm gõ mái cửa ngoài 2037 Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong 2038 Thấy màu ăn mặc nâu sồng 2039 Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương 2040 Gạn gùng ngành ngọn cho tường 2041 Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh 2042 “Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh 2043 Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu 2044 Bản sư rồi cũng đến sau 2045 Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh” 2046 Rày vâng diện hiến rành rành 2047 Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra 2048 Xem qua sư mới dạy qua 2049 “Phải ni Hằng Thủy là ta hậu tình 2050 Chỉn e đường sá một mình 2051 Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày” 2052 Gửi thân được chốn am mây 2053 Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong 2054 Kệ kinh câu cũ thuộc lòng 2055 Hương đèn việc cũ trai phòng quen tay 2056 Sớm khuya lá bối phướn mây 2057 Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sương 2058 Thấy nàng thông tuệ khác thường 2059 Sư càng nể mặt nàng càng vững chân. 2060 36 – Bị Họ Bạc Lừa Cửa thiền vừa tiết cuối xuân 2061 Bóng hoa đầy đất vẻ ngân vang trời 2062 Gió quang mây tạnh thảnh thơi 2063 Có người đàn việt lên chơi cửa già 2064 Giở đồ chuông khánh xem qua 2065 Khen rằng “Khéo giống của nhà Hoạn nương” 2066 Giác Duyên thực ý lo lường 2067 Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau 2068 Nghĩ rằng khôn nỗi giấu màu 2069 Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay 2070 “Bây giờ sự đã dường này 2071 Phận hèn dù rủi dù may tại người” 2072 Giác Duyên nghe nói rụng rời 2073 Nửa thương nửa sợ bồi hồi chẳng xong 2074 Rỉ nghe nàng, mới giãi lòng 2075 “Ở đây cửa Phật là không hẹp gì 2076 E chăng những sự bất kỳ 2077 Để nàng cho đến thế thì cũng thương 2078 Lánh xa trước liệu tìm đường 2079 Ngồi chờ nước đến nên dường còn quê” 2080 Có nhà họ Bạc bên kia 2081 Am mây quen lối đi về dầu hương 2082 Nhắn sang dặn hỏi mọi đường 2083 Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân 2084 Những mừng được chốn an thân 2085 Vội vàng nào kịp tính gần tính xa 2086 Nào ngờ cùng tổ bợm già 2087 Bạc Bà học với Tú bà đồng môn 2088 Thấy nàng lạt phấn nhàm son 2089 Mừng thầm được mối bán buôn có lời 2090 Hư không đặt bỏ nên lời 2091 Nàng đà lớn sợ rụng rời lắm phen 2092 Mụ càng xui đuổi cho liền 2093 Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần 2094 Rằng “Nàng muôn dặm một thân 2095 Lại mang lấy tiếng dữ gần lành xa 2096 Khéo oan gia của phá gia 2097 Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây 2098 Kip toan kiếm chốn xe dây 2099 Không dưng chưa dễ mà bay đường trời 2100 Nơi gần thì chẳng tiện nơi 2101 Nơi xa thì chẳng có người nào xa 2102 Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà 2103 Cũng trong thân thích ruột rà chẳng ai 2104 Cửa hàng buôn bán châu Thai 2105 Thật thà có một đơn sai chẳng hề 2106 Thế nào nàng cũng phải nghe 2107 Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai 2108 Bấy giờ ai lại biết ai 2109 Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh 2110 Nàng dù quyết chẳng thuận tình 2111 Trái trời nẻo trước lụy mình đến sau” 2112 Nàng càng mặt ủ mày chau 2113 Càng nghe mụ nói càng đau như dần 2114 Nghĩ mình túng đất sảy chân 2115 Thế cùng nàng mới xa gần thở than 2116 “Thiếp như con én lạc đàn 2117 Phải cung rày đã sợ làn cây cong 2118 Cùng đường dù tính chữ tòng 2119 Biết người biết mặt biết lòng làm sao 2120 Nữa khi muôn một thế nào 2121 Bán hùm buôn quỷ chắc vào lưng đâu 2122 Dù ai lòng có sở cầu 2123 Tâm minh xin quyết với nhau một lời 2124 Chứng minh có đất có trời 2125 Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì” 2126 Được lời mụ mới ra đi 2127 Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh 2128 Một nhà dọn dẹp linh đình 2129 Quét sân đặt trác rửa bình thắp nhang 2130 Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng 2131 Quá lời nguyện hết Thành hoàng Thổ công 2132 Trước sân lòng đã giãi lòng 2133 Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên 2134 Thành thân mới rước xuống thuyền 2135 Thuận buồm một lá xuôi miền châu Thai. 2136 37 – Vào Lầu Xanh Lần II Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi 2137 Bạc Sinh lên trước tìm nơi mọi ngày 2138 Cũng nhà hàng viện xưa nay 2139 Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người 2140 Xem người định giá vừa rồi 2141 Mối hàng một đã ra mười thì buông 2142 Mướn người thuê kiệu rước nàng 2143 Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa 2144 Kiệu hoa đặt trước thềm hoa 2145 Bên trong thấy một mụ ra vội vàng 2146 Đưa nàng vào lạy gia đường 2147 Cũng thần mày trắng cũng phường lầu xanh 2148 Thoắt trông nàng đã biết tình 2149 Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao 2150 Chém cha cái số hoa đào 2151 Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi 2152 Nghĩ đời mà ngán cho đời 2153 Tài tình chi lắm cho trời đất ghen 2154 Tiếc thay nước đã đánh phèn 2155 Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần 2156 Hồng quân với khách hồng quần 2157 Đã xoay đến thế còn vần chưa tha 2158 Lỡ từ lạc bước bước ra 2159 Cái thân liệu những từ nhà liệu đi 2160 Đầu xanh đã tội tình chi 2161 Má hồng đền quá nửa thì chưa thôi 2162 Biết thân chạy chẳng khỏi trời 2163 Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. 2164 38 – Gặp Từ Hải Lần thâu gió mát trăng thanh 2165 Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi 2166 Râu hùm hàm én mày ngài 2167 Vai năm tấc rộng thân mười thước cao 2168 Đường đường một đấng anh hào 2169 Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài 2170 Đội trời đạp đất ở đời 2171 Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông 2172 Giang hồ quen thú vẫy vùng 2173 Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo 2174 Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều 2175 Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng 2176 Thiếp danh đưa đến lầu hồng 2177 Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa 2178 Từ rằng “Tâm phúc tương cờ 2179 Phải người trăng gió vật vờ hay sao 2180 Bấy lâu nghe tiếng má đào 2181 Mắt xanh chẳng để ai vào có không 2182 Một đời được mấy anh hùng 2183 Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi” 2184 Nàng rằng “Người dạy quá lời 2185 Thân này còn dám xem ai làm thường 2186 Chút riêng chọn đá thử vàng 2187 Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu 2188 Còn như vào trước ra sau 2189 Ai cho kén chọn vàng thau tại mình” 2190 Từ rằng “Lời nói hữu tình 2191 Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân 2192 Lại đây xem lại cho gần 2193 Phỏng tin được một vài phần hay không?” 2194 Thưa rằng “Lượng cả bao dung 2195 Tấn Dương được thấy mây rồng có phen 2196 Rộng thương cỏ nội hoa hèn 2197 Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” 2198 Nghe lời vừa ý gật đầu 2199 Cười rằng “Tri kỷ trước sau mấy người 2200 Khen cho con mắt tinh đời 2201 Anh hùng đoán giữa trần ai mới già 2202 Một lời đã biết đến ta 2203 Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau” 2204 Hai bên ý hợp tâm đầu 2205 Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân 2206 Ngỏ lời nói với băng nhân 2207 Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn 2208 Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn 2209 Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên 2210 Trai anh hùng gái thuyền quyên 2211 Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng. 2212 39 – Từ Hải Ra Đi Nửa năm hương lửa đương nồng 2213 Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương 2214 Trông vời trời bể mênh mang 2215 Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong 2216 Nàng rằng “Phận gái chữ tòng 2217 Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi 2218 Từ rằng “Tâm phúc tương tri 2219 Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình 2220 Bao giờ mười vạn tinh binh 2221 Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường 2222 Làm cho rõ mặt phi thường 2223 Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia 2224 Bằng nay bốn bể không nhà 2225 Theo càng thêm bận biết là đi đâu 2226 Đành lòng chờ đó ít lâu 2227 Chầy chăng là một năm sau vội gì” 2228 Quyết lời dứt áo ra đi 2229 Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi 2230 Nàng thì chiếc bóng song mai 2231 Đêm thâu đằng đẵng ngày cài then mây 2232 Sân rêu chẳng vẽ dấu giày 2233 Cỏ cao hơn thước liễu gầy vài phân 2234 Đoái trông muôn dặm tử phần 2235 Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa 2236 Xót thay huyên cỗi xuân già 2237 Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi? 2238 Chốc đà mười mấy năm trời 2239 Còn ra khi đã da mồi tóc sương 2240 Tiếc thay chút nghĩa cũ càng 2241 Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng 2242 Duyên em dù nối tơ hồng 2243 May ra khi đã tay bồng tay mang 2244 Tấc lòng cố quốc tha hương 2245 Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời 2246 Cánh hồng bay bổng tuyệt vời 2247 Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. 2248 40 – Từ Hải Về Đón Kiều Đêm ngày luống những âm thầm 2249 Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương 2250 Ngất trời sát khí mơ màng 2251 Đầy sông kình ngạc chật đường giáp binh 2252 Người quen thuộc kẻ chung quanh 2253 Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi 2254 Nàng rằng “Trước đã hẹn lời 2255 Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!” 2256 Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ 2257 Mé ngoài đã thấy bóng cờ tiếng la 2258 Giáp binh kéo đến quanh nhà 2259 Đồng thanh cùng dạ “Nào là phu nhân?” 2260 Hai bên mười vị tướng quân 2261 Đặt gươm cởi giáp trước sân khấu đầu 2262 Cung nga thể nữ nối sau 2263 Rằng “Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy 2264 Sẵn sàng phượng liễn loan nghi 2265 Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng 2266 Dựng cờ nổi trống lên đường 2267 Trúc tơ nổi trước đào vàng kéo sau 2268 Hỏa bài tiền lộ ruổi mau 2269 Nam đình nghe động trống chầu đại doanh 2270 Kéo cờ lũy phát súng thành 2271 Từ Công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài 2272 Rỡ mình lạ vẻ cân đai 2273 Hãy còn hàm én mày ngài như xưa 2274 Cười rằng “Cá nước duyên ưa 2275 Nhớ lời nói những bao giờ hay không 2276 Anh hùng mới biết anh hùng 2277 Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?” 2278 Nàng rằng “Chút phận ngây thơ 2279 Cũng may dây cát được nhờ bóng cây 2280 Đến bây giờ mới thấy đây 2281 Mà lòng đã chắc những ngày một hai” 2282 Cùng nhau trông mặt cả cười 2283 Dan tay về chốn trướng mai tự tình 2284 Tiệc bày thưởng tướng khao binh 2285 Om thòm trống trận rập rình nhạc quân 22806 Vinh hoa bõ lúc phong trần 2287 Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày. 2288 41 – Đền Ơn Báo Oán Trong quân có lúc vui vầy 2289 Thong dong mới kể sự ngày hàn vi 2290 “Khi Vô Tích khi Lâm Tri 2291 Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương 2292 Tấm thân rày đã nhẹ nhàng 2293 Chút còn ân oán đôi đường chưa xong” 2294 Từ công nghe nói thủy chung 2295 Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang 2296 Nghiêm quân chọn tướng sẵn sàng 2297 Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao 2298 Ba quân chỉ ngọn cờ đào 2299 Đạo ra Vô Tích đạo vào Lâm Tri 2300 Mấy người phụ bạc xưa kia 2301 Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra 2302 Lại sai lệnh tiễn truyền qua 2303 Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên 2304 Mụ quản gia, vãi Giác Duyên 2305 Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời 2306 Thệ sư kể hết mọi lời 2307 Lòng lòng cũng giận người người chấp uy 2308 Đạo trời báo phục chỉn ghê 2309 Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi 2310 Quân trung gươm lớn giáo dài 2311 Vệ trong thị lập cơ ngoài song phi 2312 Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi 2313 Vác đòng chật đất tinh kỳ rợp sân 2314 Trướng hùm mở giữa trung quân 2315 Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi 2316 Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi 2317 Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên 2318 Từ rằng “Ân oán hai bên 2319 Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh 2320 Nàng rằng “Nhờ cậy uy linh 2321 Hãy xin báo đáp ân tình cho phu 2322 Báo ân rồi sẽ trả thù” 2323 Từ rằng “Việc ấy để cho mặc nàng” 2324 Cho gươm mời đến Thúc Lang 2325 Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run 2326 Nàng rằng “Nghĩa trọng nghìn non 2327 Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không 2328 Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng 2329 Tại ai há dám phụ lòng cố nhân 2330 Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân 2331 Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là 2332 Vợ chàng quỷ quái tinh ma 2333 Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau 2334 Kiến bò miệng chén chưa lâu 2335 Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” 2336 Thúc Sinh trông mặt bấy giờ 2337 Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm 2338 Lòng riêng mừng sợ khôn cầm 2339 Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai 2340 Mụ già sư trưởng thứ hai 2341 Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên 2342 Dắt tay mở mặt cho nhìn 2343 “Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi 2344 Nhớ khi lỡ bước sẩy vời 2345 Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương 2346 Nghìn vàng gọi chút lễ thường 2347 Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân” 2348 Hai người trông mặt tần ngần 2349 Nửa phần khiếp sợ nửa phần mừng vui 2350 Nàng rằng “Xin hãy rốn ngồi 2351 Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù” 2352 Kíp truyền chư tướng hiến phù 2353 Lại đem các tích phạm đồ hậu tra 2354 Dưới cờ gươm tuốt nắp ra 2355 Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư 2356 Thoắt trông nàng đã chào sơ 2357 “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây 2358 Đàn bà dễ có mấy tay 2359 Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan 2360 Dễ dàng là thói hồng nhan 2361 Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều” 2362 Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu 2363 Khấu đầu dưới trướng giở điều kêu ca 2364 Rằng “Tôi chút dạ đàn bà 2365 Ghen tuông thì cũng người ta thường tình 2366 Nghĩ cho khi các viết kinh 2367 Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo 2368 Lòng riêng riêng cũng kính yêu 2369 Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai 2370 Trót đà gây việc chông gai 2371 Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng” 2372 Khen cho “Thật đã nên rằng 2373 Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời 2374 Tha ra thì cũng may đời 2375 Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen 2376 Đã lòng tri quá thì nên 2377 Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay” 2378 Tạ lòng lạy trước sân mây 2379 Cửa hiên lại dắt một dây dẫn vào 2380 Nàng rằng “Lồng lộng trời cao 2381 Hại nhân nhân hại sự nào tại ta 2382 Trước là Bạc Hạnh Bạc Bà 2383 Bên là Ưng Khuyển bên là Sở Khanh 2384 Tú Bà với Mã Giám Sinh 2385 Các tên tội ấy đáng tình còn sao 2386 Lệnh quân truyền xuống nội đao 2387 Thề sao thì lại cứ sao gia hình 2388 Máu rơi thịt nát tan tành 2389 Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời 2390 Cho hay muôn sự tại trời 2391 Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta 2392 Mấy người bạc ác tinh ma 2393 Mình làm mình chịu kêu mà ai thương 2394 Ba quân đông mặt pháp trường 2395 Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi 2396 Việc nàng báo phục vừa rồi 2397 Giác Duyên vội đã gởi lời từ quy 2398 Nàng rằng “Thiên tải nhất thì 2399 Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn 2400 Rồi đây bèo hợp mây tan 2401 Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu” 2402 Sư rằng “Cũng chẳng mấy lâu 2403 Trong năm năm lại gặp nhau đó mà 2404 Nhớ ngày hành cước phương xa 2405 Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri 2406 Bảo cho hội hợp chi kỳ 2407 Năm nay là một nữa thì năm năm 2408 Mới hay tiền định chẳng lầm 2409 Đã tin điều trước ắt nhằm điều sau 2410 Còn nhiều ân ái với nhau 2411 Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì” 2412 Nàng rằng “Tiền định tiên tri 2413 Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai 2414 Họa bao giờ có gặp người 2415 Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân” 2416 Giác Duyên vâng dặn ân cần 2417 Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài. 2418 42 – Triều Đình Riêng Một Góc Trời Nàng từ ân oán rạch ròi 2419 Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng 2420 Tạ ân lạy trước Từ Công 2421 “Chút thân bồ liễu nào mong có rày 2422 Trộm nhờ sấm sét ra tay 2423 Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi 2424 Khắc xương chép dạ xiết chi 2425 Dễ đem gan óc đền nghì trời mây” 2426 Từ rằng “Quốc sĩ xưa nay 2427 Chọn người tri kỷ một ngày được chăng? 2428 Anh hùng tiếng đã gọi rằng 2429 Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha 2430 Huống chi việc cũng việc nhà 2431 Lọ là thâm tạ mới là tri ân 2432 Xót nàng còn chút song thân 2433 Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa 2434 Sao cho muôn dặm một nhà 2435 Cho người thấy mặt là ta cam lòng” 2436 Vội truyền sửa tiệc quân trung 2437 Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan 2438 Thừa cơ trúc chẻ ngói tan 2439 Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài 2440 Triều đình riêng một góc trời 2441 Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà 2442 Đòi phen gió quét mưa sa 2443 Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam 2444 Phong trần mài một lưỡi gươm 2445 Những loài giá áo túi cơm sá gì 2446 Nghênh ngang một cõi biên thùy 2447 Thiếu gì cô quả thiếu gì bá vương 2448 Trước cờ ai dám tranh cường 2449 Năm năm hùng cứ một phương hải tần. 2450 43 – Hồ Tôn Hiến Dụ Hàng Có quan tổng đốc trọng thần 2451 Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài 2452 Đẩy xe vâng chỉ đặc sai 2453 Tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung 2454 Biết Từ là đấng anh hùng 2455 Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn 2456 Đóng quân làm chước chiêu an 2457 Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng 2458 Lại riêng một lễ với nàng 2459 Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân 2460 Tin vào gởi trước trung quân 2461 Từ Công riêng hãy mười phân hồ đồ 2462 Một tay gây dựng cơ đồ 2463 Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành 2464 Bó thân về với triều đình 2465 Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu 2466 Áo xiêm ràng buộc lấy nhau 2467 Vào luồn ra cúi công hầu mà chi 2468 Sao bằng riêng một biên thùy 2469 Sức này đã dễ làm gì được nhau 2470 Chọc trời khuấy nước mặc dầu 2471 Dọc ngang nào biết trên đầu có ai 2472 Nàng thì thật dạ tin người 2473 Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu 2474 Nghĩ mình mặt nước cánh bèo 2475 Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân 2476 Bằng nay chịu tiếng vương thần 2477 Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì 2478 Công tư vẹn cả hai bề 2479 Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương 2480 Cũng ngôi mệnh phụ đường đường 2481 Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha 2482 Trên vì nước dưới vì nhà 2483 Một là đắc hiếu hai là đắc trung 2484 Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng 2485 E dè sóng gió hãi hùng cỏ hoa 2486 Nhân khi bàn bạc gần xa 2487 Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào 2488 Rằng “Ơn thánh trạch dồi dào 2489 Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu 2490 Bình thành công đức bấy lâu 2491 Ai ai cũng đội trên đầu biết bao 2492 Ngẫm từ dấy việc binh đao 2493 Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu 2494 Làm chi để tiếng về sau 2495 Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào 2496 Sao bằng lộc trọng quyền cao 2497 Công danh ai dứt lối nào cho qua?” 2498 Nghe lời nàng nói mặn mà 2499 Thế công Từ mới trở ra thế hàng 2500 Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng 2501 Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh. 2502 44 – Từ Hải Chết Đứng Tin lời thành hạ yêu minh 2503 Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng 2504 Việc binh bỏ chẳng giữ giàng 2505 Vương sư nghe đã tỏ tường thực hư 2506 Hồ Công quyết kế thừa cơ 2507 Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công 2508 Kéo cờ chiêu phủ tiên phong 2509 Lễ nghi dàn trước bác đòng phục sau 2510 Từ Công hờ hững biết đâu 2511 Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên 2512 Hồ Công ám hiệu trận tiền 2513 Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ 2514 Đương khi bất ý chẳng ngờ 2515 Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn 2516 Tử sinh liều giữa trận tiền 2517 Dạn dày cho biết gan liền tướng quân 2518 Khí thiêng khi đã về thần 2519 Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng 2520 Trơ như đá vững như đồng 2521 Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời 2522 Quan quân truy sát đuổi dài 2523 Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang 2524 Trong hào ngoài lũy tan hoang 2525 Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi 2526 Trong vòng tên đá bời bời 2527 Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ 2528 Khóc rằng “Trí dũng có thừa 2529 Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này 2530 Mặt nào trông thấy nhau đây 2531 Thà liều sống chết một ngày với nhau” 2532 Dòng thu như xối cơn sầu 2533 Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên 2534 Lạ thay oan khí tương triền 2535 Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra 2536 Quan quân kẻ lại người qua 2537 Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần. 2538 45 – Hầu Rượu Hồ Tôn Hiến Đem vào đến trước trung quân 2539 Hồ Công thấy mặt ân cần hỏi han 2540 Rằng “Nàng chút phận hồng nhan 2541 Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương 2542 Đã hay thành toán miếu đường 2543 Giúp công cũng có lời nàng mới nên 2544 Bây giờ sự đã vạn tuyền 2545 Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?” 2546 Nàng càng tủi ngọc tuôn dào 2547 Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng 2548 Rằng “Từ là đấng anh hùng 2549 Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi 2550 Tin tôi nên quá nghe lời 2551 Đem thân bách chiến làm tôi triều đình 2552 Ngỡ là phu quý phụ vinh 2553 Ai ngờ một phút tan tành thịt xương 2554 Năm năm trời bể ngang tàng 2555 Dấn mình đi bỏ chiến trường như không 2556 Khéo khuyên để lấy làm công 2557 Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu 2558 Xét mình công ít tội nhiều 2559 Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi 2560 Xin cho thiển thổ một doi 2561 Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh” 2562 Hồ Công nghe nói thương tình 2563 Truyền cho kiểu táng di hình bên sông 2564 Trong quân mở tiệc hạ công 2565 Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan 2566 Bắt nàng thị yến dưới màn 2567 Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu 2568 Một cung gió tủi mưa sầu 2569 Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay 2570 Ve ngâm vượn hót nào tày 2571 Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu 2572 Hỏi rằng “Này khúc ở đâu 2573 Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay” 2574 Thưa rằng “Bạc phận khúc này 2575 Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ 2576 Cung cầm lựa những ngày xưa 2577 Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây” 2578 Càng nghe càng đắm càng say 2579 Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình 2580 Dạy rằng “Hương lửa ba sinh 2581 Dây loan xin nối cầm lành cho ai?” 2582 Thưa rằng “Chút phận lạc loài 2583 Trong mình nghĩ đã có người thác oan 2584 Còn chi nữa cánh hoa tàn 2585 Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân 2586 Rộng thương còn mảnh hồng quần 2587 Hơi tàn được thấy gốc phần là may” 2588 Hạ công chén đã quá say 2589 Hồ Công đến lúc rạng ngày nhớ ra 2590 Nghĩ mình phương diện quốc gia 2591 Quan trên nhắm xuống người ta trông vào 2592 Phải tuồng trăng gió hay sao 2593 Sự này biết tính thế nào được đây? 2594 Tảo nha vừa buổi rạng ngày 2595 Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài 2596 Lệnh quan ai dám cãi lời 2597 Ép tình mới gán cho người thổ quan 2598 Ông tơ thực nhé đa đoan 2599 Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên. 2600 46 – Tự Tử Ở Sông Tiền Đường Kiệu hoa áp thắng xuống thuyền 2601 Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao 2602 Nàng càng ủ liễu phai đào 2603 Trăm phần nào có phần nào phần tươi 2604 Đành thân cát dập sóng vùi 2605 Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh 2606 Chân trời mặt bể lênh đênh 2607 Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào? 2608 Duyên đâu ai dứt tơ đào 2609 Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay 2610 Thân sao thân đến thế này 2611 Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi 2612 Đã không biết sống là vui 2613 Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương 2614 Một mình cay đắng trăm đường 2615 Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi 2616 Mảnh trăng đã gác non đoài 2617 Một mình luống những đứng ngồi chưa xong 2618 Triều đâu nổi tiếng đùng đùng 2619 Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường 2620 Nhớ lời thần mộng rõ ràng 2621 Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây 2622 “Đạm Tiên nàng nhé có hay 2623 Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta” 2624 Dưới đèn sẵn bức tiên hoa 2625 Một thiên tuyệt bút gọi là để sau 2626 Cửa bồng vội mở rèm châu 2627 Trời cao bể rộng một màu bao la 2628 Rằng “Từ Công hậu đãi ta 2629 Chút vì việc nước mà ra phụ lòng 2630 Giết chồng mà lại lấy chồng 2631 Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời 2632 Thôi thì một thác cho rồi 2633 Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông” 2634 Trông vời con nước mênh mông 2635 Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang 2636 Thổ quan theo vớt vội vàng 2637 Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi 2638 Thương thay cũng một thân người 2639 Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi 2640 Những là oan khổ lưu ly 2641 Chờ cho hết kiếp còn gì là thân 2642 Mười lăm năm bấy nhiêu lần 2643 Làm gương cho khách hồng quần thử soi 2644 Đời người đến thế thì thôi 2645 Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay 2646 Mấy người hiếu nghĩa xưa nay 2647 Trời làm chi đến lâu ngày càng thương.” 2648 47 – Được Giác Duyên Cứu Giác Duyên từ tiết giã nàng 2649 Treo bầu quảy níp rộng đường vân du 2650 Gặp bà Tam Hợp đạo cô 2651 Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng 2652 “Người sao hiếu nghĩa đủ đường 2653 Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?” 2654 Sư rằng Phúc họa đạo trời 2655 Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra 2656 Có trời mà cũng tại ta 2657 Tu là cội phúc tình là dây oan 2658 Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan 2659 Vô duyên là phận hồng nhan đã đành 2660 Lại mang lấy một chữ tình 2661 Khư khư mình buộc lấy mình vào trong 2662 Vậy nên những chốn thong dong 2663 Ở không yên ổn ngồi không vững vàng 2664 Ma đưa lối quỷ đem đường 2665 Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi 2666 Hết nạn nọ đến nạn kia 2667 Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần 2668 Giữa vòng giáo dựng gươm trần 2669 Kề răng hùm sói gủi thân tôi đòi 2670 Giữa dòng nước dẫy sóng dồi 2671 Trước hàm rồng cá gieo mồi thủy tinh 2672 Oan kia theo mãi với tình 2673 Một mình mình biết một mình mình hay 2674 Làm cho sống đọa thác đày 2675 Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi” 2676 Giác Duyên nghe nói rụng rời 2677 “Một đời nàng nhé thương ôi còn gì” 2678 Sư rằng “Song chẳng hề chi 2679 Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều 2680 Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều 2681 Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm 2682 Lấy tình thâm trả tình thâm 2683 Bán mình đã động hiếu tâm đến trời 2684 Hại một người cứu muôn người 2685 Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng 2686 Thửa công đức ấy ai bằng 2687 Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi 2688 Khi nên trời cũng chiều người 2689 Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau 2690 Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau 2691 Tiền Đường thả một bè lau rước người 2692 Trước sau cho vẹn một lời 2693 Duyên ta mà cũng phúc trời chi không” 2694 Giác Duyên nghe nói mừng lòng 2695 Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường 2696 Đánh tranh chụm nóc thảo đường 2697 Một gian nước biếc mây vàng chia đôi 2698 Thuê năm ngư phủ hai người 2699 Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông 2700 Một lòng chẳng quản mấy công 2701 Khéo trong gặp gỡ cũng trong chuyển vần 2702 Kiều từ gieo xuống duềnh ngân 2703 Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi 2704 Ngư ông kéo lưới vớt người 2705 Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa 2706 Trên mui lướt thướt áo là 2707 Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương 2708 Giác Duyên nhìn thật mặt nàng 2709 Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai 2710 Mơ màng phách quế hồn mai 2711 Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa 2712 Rằng “Tôi đã có lòng chờ 2713 Mất công đã mấy năm thừa ở đây 2714 Chị sao phận mỏng đức dày 2715 Kiếp này đã vậy lòng này dễ ai 2716 Tâm thành đã thấu đến trời 2717 Bán mình là hiếu cứu người là nhân 2718 Một niềm vì nước vì dân 2719 Âm công cất một đồng cân đã già 2720 Đoạn trường sổ rút tên ra 2721 Đoạn trường thơ phải nghênh mà trả nhau 2722 Còn nhiều hưởng thụ về sau 2723 Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào” 2724 Nàng còn ngơ ngẩn biết sao 2725 Trạc Tuyền! Nghe tiếng gọi vào bên tai 2726 Giật mình thoắt tỉnh giấc mai 2727 Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn 2728 Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên 2729 Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề 2730 Thấy nhau mừng rỡ trăm bề 2731 Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư 2732 Một nhà chung chạ sớm trưa 2733 Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng 2734 Bốn bề bát ngát mênh mông 2735 Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau. 2736 48 – Kim Trọng Trở Lại Vườn Thúy Nạn xưa trút sạch làu làu 2737 Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này 2738 Nỗi nàng tai nạn đã đầy 2739 Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương 2740 Từ ngày muôn dặm phù tang 2741 Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà 2742 Vội sang vườn Thúy dò la 2743 Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa 2744 Đầy vườn cỏ mọc lau thưa 2745 Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời 2746 Trước sau nào thấy bóng người 2747 Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông 2748 Xập xè én liệng lầu không 2749 Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày 2750 Cuối tường gai góc mọc đầy 2751 Đi về này những lối này năm xưa 2752 Chung quanh lặng ngắt như tờ 2753 Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? 2754 Láng giềng có kẻ sang chơi 2755 Lân la sẽ hỏi một hai sự tình 2756 Hỏi ông ông mắc tụng đình 2757 Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha 2758 Hỏi nhà nhà đã dời xa 2759 Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân 2760 Đều là sa sút khó khăn 2761 May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi 2762 Điều đâu sét đánh lưng trời 2763 Thoạt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao 2764 Vội han di trú nơi nao 2765 Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi 2766 Nhà tranh vách đất tả tơi 2767 Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa 2768 Một sân đất cỏ dầm mưa 2769 Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường 2770 Đánh liều lên tiếng ngoài tường 2771 Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra 2772 Dắt tay vội rước vào nhà 2773 Mé sau viên ngoại ông bà ra ngay 2774 Khóc than kể hết niềm tây 2775 “Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa 2776 Kiều nhi phận mỏng như tờ 2777 Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng 2778 Gặp cơn gia biến lạ dường 2779 Bán mình nó phải tìm đường cứu cha 2780 Dùng dằng khi bước chân ra 2781 Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần 2782 Trót lời nặng với lang quân 2783 Mượn con em nó Thúy Vân thay lời 2784 Gọi là trả chút nghĩa người 2785 Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên 2786 Kiếp này duyên đã phụ duyên 2787 Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh 2788 Mấy lời ký chú đinh ninh 2789 Ghi lòng để dạ cất mình ra đi 2790 Phận sao bạc bấy Kiều nhi 2791 Chàng Kim về đó con thì đi đâu?” 2792 Ông bà càng nói càng đau 2793 Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa 2794 Vật mình vẫy gió tuôn mưa 2795 Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai 2796 Đau đòi đoạn ngất đòi thôi 2797 Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê. 2798 49 – Kim Trọng Kết Duyên Với Thúy Vân Thấy chàng đau nỗi biệt ly 2799 Nhịn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên 2800 “Bây giờ ván đã đóng thuyền 2801 Đã đành phận bạc khôn đền tình chung 2802 Quá thương chút nghĩa đèo bòng 2803 Nghìn vàng thân ấy thì hòng bỏ sao?” 2804 Dỗ dành khuyên giải trăm chiều 2805 Lửa phiền khôn dập càng khêu mối phiền 2806 Thề xưa giở đến kim hoàn 2807 Của xưa lại giở đến đàn với hương 2808 Sinh càng trông thấy càng thương 2809 Gan càng tức tối ruột càng xót xa 2810 Rằng “Tôi trót quá chân ra 2811 Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo 2812 Cùng nhau thề thốt đã nhiều 2813 Những điều vàng đá phải điều nói không 2814 Chưa chăn gối cũng vợ chồng 2815 Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang? 2816 Bao nhiêu của mấy ngày đàng 2817 Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi” 2818 Nỗi thương nói chẳng hết lời 2819 Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra 2820 Vội về sửa chốn vườn hoa 2821 Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang 2822 Thần hôn chăm chút lễ thường 2823 Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa 2824 Đinh ninh mài lệ chép thơ 2825 Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe 2826 Biết bao công mướn của thuê 2827 Lâm Thanh mấy độ đi về dặm khơi 2828 Người một nơi hỏi một nơi 2829 Mênh mông nào biết bể trời nơi nao 2830 Sinh càng thảm thiết khát khao 2831 Như nung gan sắt như bào lòng son 2832 Ruột tằm ngày một héo hon 2833 Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve 2834 Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê 2835 Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao 2836 Xuân huyên lo sợ biết bao 2837 Quá ra khi đến thế nào mà hay 2838 Vội vàng sắm sửa chọn ngày 2839 Duyên Vân sớm đã xe dây cho chàng 2840 Người yểu điệu kẻ văn chương 2841 Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì 2842 Tuy rằng vui chữ vu quy 2843 Vui này đã cất sầu kia được nào 2844 Khi ăn ở lúc ra vào 2845 Càng âu duyên mới càng dào tình xưa 2846 Nỗi nàng nhớ đến bao giờ 2847 Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng 2848 Có khi vắng vẻ thư phòng 2849 Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa 2850 Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ 2851 Trầm bay lạt khói gió đưa lay rèm 2852 Dường như bên chái trước thềm 2853 Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng 2854 Bởi lòng tạc đá ghi vàng 2855 Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây 2856 Những là phiền muộn đêm ngày 2857 Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần? 2858 50 – Vương – Kim Hội Ngộ – Tìm Kiều Chế khoa gặp hội trường văn 2859 Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày 2860 Cửa trời rộng mở đường mây 2861 Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần 2862 Chàng Vương nhớ đến xa gần 2863 Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền 2864 Tình xưa ân trả nghĩa đền 2865 Gia thân bèn mới kết duyên Châu Trần 2866 Chàng từ nhẹ bước thanh vân 2867 – Kim Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương 2868 Ấy ai dặn ngọc thề vàng 2869 Bây giờ kim mã ngọc đường với ai 2870 Ngọn bèo chân sóng lạc loài 2871 Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly 2872 Vâng ra ngoại nhậm Lâm Tri 2873 Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn 2874 Cầm đường ngày tháng thanh nhàn 2875 Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao 2876 Phòng xuân trướng rủ hoa đào 2877 Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng 2878 Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng 2879 Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi 2880 Nọ Lâm Thanh với Lâm Tri 2881 Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm 2882 Trong cơ thanh khí tương tầm 2883 Ở đây hoặc có giai âm chăng là? 2884 Thăng đường chàng mới hỏi tra 2885 Họ Đô có kẻ lại già thưa lên 2886 “Sự này đã ngoại mười niên 2887 Tôi đà biết mặt biết tên rành rành 2888 Tú Bà cùng Mã Giám sinh 2889 Đi mua người ở Bắc Kinh đưa về 2890 Thúy Kiều tài sắc ai bì 2891 Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ 2892 Kiên trinh chẳng phải gan vừa 2893 Liều mình thế ấy phải lừa thế kia 2894 Phong trần chịu đã ê chề 2895 Dây duyên sau lại xe về Thúc Lang 2896 Phải tay vợ cả phũ phàng 2897 Bắt về Vô Tích toan đường bẻ hoa 2898 Dứt mình nàng phải trốn ra 2899 Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia 2900 Thoắt buôn về thoắt bán đi 2901 Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi! 2902 Bỗng đâu lại gặp một người 2903 Hơn người trí dũng nghiêng trời uy linh 2904 Trong tay muôn vạn tinh binh 2905 Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri 2906 Tóc tơ các tích mọi khi 2907 Oán thì trả oán ân thì trả ân 2908 Đã nên có nghĩa có nhân 2909 Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen 2910 Chưa tường được họ được tên 2911 Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường” 2912 Nghe lời Đô nói rõ ràng 2913 Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc Sinh 2914 Nỗi nàng hỏi hết phân minh 2915 Chồng con đâu tá tính danh là gì? 2916 Thúc rằng “Gặp lúc lưu ly 2917 Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ 2918 Đại vương tên Hải họ Từ 2919 Đánh quen trăm trận sức dư muôn người 2920 Gặp nàng khi ở châu Thai 2921 Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên 2922 Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên 2923 Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng 2924 Đại quân đồn đóng cõi đông 2925 Về sau chẳng biết vân mồng làm sao” 2926 Nghe tường ngành ngọn tiêu hao 2927 Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ 2928 Xót thay chiếc lá bơ vơ 2929 Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong? 2930 Hoa trôi nước chảy xuôi dòng 2931 Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan 2932 Lời xưa đã lỗi muôn vàn 2933 Mảnh gương còn đó phím đàn còn đây 2934 Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây 2935 Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi 2936 Bình bồng còn chút xa xôi 2937 Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an! 2938 Rắp mong treo ấn từ quan 2939 Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua 2940 Dấn mình trong áng can qua 2941 Vào sinh ra tử họa là thấy nhau 2942 Nghĩ điều trời thẳm vực sâu 2943 Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn! 2944 Những là nấn ná đợi tin 2945 Nắng mưa biết đã mấy phen đổi đời? 2946 Năm mây bỗng thấy chiếu trời 2947 Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành 2948 Kim thì cải nhậm Nam Bình 2949 Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu Dương 2950 Sắm xanh xe ngựa vội vàng 2951 Hai nhà cùng thuận một đường phó quan 2952 Xảy nghe thế giặc đã tan 2953 Sóng êm Phúc Kiến lửa tàn Chiết Giang 2954 Được tin Kim mới rủ Vương 2955 Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa 2956 Hàng Châu đến đó bấy giờ 2957 Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành 2958 Rằng “Ngày hôm nọ giao binh 2959 Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền 2960 Nàng Kiều công cả chẳng đền 2961 Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù 2962 Nàng đà gieo ngọc trầm châu 2963 Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan!” 2964 Thương ôi! Không hợp mà tan 2965 Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng 2966 Chiêu hồn thiết vị lễ thường 2967 Giải oan lập một đàn tràng bên sông 2968 Ngọn triều non bạc trùng trùng 2969 Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo 2970 Tình thâm biển thảm lạ điều 2971 Nào hồn Tinh Vệ biết theo chốn nào? 2972 51 – Gặp Lại Gia Đình Cơ duyên đâu bỗng lạ sao 2973 Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi 2974 Trông lên linh vị chữ bài 2975 Thất kinh mới hỏi “Những người đâu ta? 2976 Với nàng thân thích gần xa 2977 Người còn sao bỗng làm ma khóc người?” 2978 Nghe tin ngơ ngác rụng rời 2979 Xúm quanh kể lể, rộn lời hỏi tra 2980 “Này chồng này mẹ này cha 2981 Này là em ruột này là em dâu 2982 Thật tin nghe đã bấy lâu 2983 Pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!” 2984 Sư rằng “Nhân quả với nàng 2985 Lâm Tri buổi trước Tiền Đường buổi sau 2986 Khi nàng gieo ngọc trầm châu 2987 Đón theo tôi đã gặp nhau rước về 2988 Cùng nhau nương cửa Bồ đề 2989 Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa 2990 Phật tiền ngày bạc lân la 2991 Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây” 2992 Nghe tin nở mặt nở mày 2993 Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? 2994 Từ phen chiếc lá lìa rừng 2995 Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây 2996 Rõ ràng hoa rụng hương bay 2997 Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi 2998 Minh dương đôi ngả chắc rồi 2999 Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên! 3000 Quây nhau lạy tạ Giác Duyên 3001 Bộ hành một lũ theo liền một khi 3002 Bẻ lau vạch cỏ tìm đi 3003 Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần 3004 Quanh co theo dải giang tân 3005 Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường 3006 Giác Duyên lên tiếng gọi nàng 3007 Phòng trong vội dạo sen vàng bước ra 3008 Trông xem đủ mặt một nhà 3009 Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi 3010 Hai em phương trưởng hòa hai 3011 Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! 3012 Tưởng bây giờ là bao giờ 3013 Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! 3014 Giọt châu thánh thót quẹn bào 3015 Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình 3016 Huyên già dưới gối gieo mình 3017 Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi 3018 “Từ con lưu lạc quê người 3019 Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm 3020 Tính rằng sông nước cát lầm 3021 Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!” 3022 Ông bà trông mặt cầm tay 3023 Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra 3024 Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa 3025 Mười phần xuân có gầy ba bốn phần 3026 Nỗi mừng biết lấy chi cân 3027 Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu 3028 Hai em hỏi trước han sau 3029 Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi 3030 Rủ nhau lạy trước Phật đài 3031 Tái sinh trần tạ lòng người từ bi 3032 Kiệu hoa giục giã tức thì 3033 Vương ông dạy rước cùng về một nơi 3034 Nàng rằng “Chút phận hoa rơi 3035 Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay 3036 Tính rằng mặt nước chân mây 3037 Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? 3038 Được rày tái thế tương phùng 3039 Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay! 3040 Đã đem mình bỏ am mây 3041 Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa 3042 Mùi thiền đã bén muối dưa 3043 Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng 3044 Sự đời đã tắt lửa lòng 3045 Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! 3046 Dở dang nào có hay gì? 3047 Đã tu tu trót qua thì thì thôi! 3048 Trùng sinh ân nặng bể trời 3049 Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?” 3050 Ông rằng “Bỉ thử nhất thì 3051 Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền 3052 Phải điều cầu Phật cầu Tiên 3053 Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây? 3054 Độ sinh nhờ đức cao dày 3055 Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung” 3056 Nghe lời nàng phải chiều lòng 3057 Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra. 3058 52 – Mở Tiệc Đoàn Viên Một đoàn về đến quan nha 3059 Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy 3060 Tàng tàng chén cúc dở say 3061 Đứng lên Vân mới giãi bày một hai 3062 Rằng “Trong tác hợp cơ trời 3063 Hai bên gặp gỡ một lời kết giao 3064 Gặp cơn bình địa ba đào 3065 Vậy đem duyên chị buộc vào cho em 3066 Cũng là phận cải duyên kim 3067 Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? 3068 Những là rày ước mai ao 3069 Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình! 3070 Bây giờ gương vỡ lại lành 3071 Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi 3072 Còn duyên may lại còn người 3073 Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa 3074 Quả mai ba bảy đương vừa 3075 Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì!” 3076 Dứt lời nàng vội gạt đi 3077 “Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ? 3078 Một lời tuy có ước xưa 3079 Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều 3080 Nói càng hổ thẹn trăm chiều 3081 Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!” 3082 Chàng rằng “Nói cũng lạ đời 3083 Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao? 3084 Một lời đã trót thâm giao 3085 Dưới dày có đất trên cao có trời! 3086 Dẫu rằng vật đổi sao dời 3087 Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh 3088 Duyên kia có phụ chi tình 3089 Mà toan chia gánh chung tình làm hai?” 3090 Nàng rằng “Gia thất duyên hài 3091 Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng 3092 Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng 3093 Hoa thơm phong nhụy trăng vòng tròn gương 3094 Chữ trinh đáng giá nghìn vàng 3095 Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa 3096 Thiếp từ ngộ biến đến giờ 3097 Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa 3098 Bấy chầy gió táp mưa sa 3099 Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn 3100 Còn chi là cái hồng nhan 3101 Đã xong thân thế còn toan nỗi nào? 3102 Nghĩ mình chẳng hổ mình sao? 3103 Dám đem trần cấu dự vào bố kinh! 3104 Đã hay chàng nặng vì tình 3105 Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru! 3106 Từ rày khép cửa phòng thu 3107 Chẳng tu thì cũng là tu mới là! 3108 Chàng dù nghĩ đến tình xa 3109 Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ 3110 Nói chi kết tóc xe tơ 3111 Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!” 3112 Chàng rằng “Khéo nói nên lời 3113 Mà trong lẽ phải có người có ta! 3114 Xưa nay trong đạo đàn bà 3115 Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường 3116 Có khi biến có khi thường 3117 Có quyền nào phải một đường chấp kinh 3118 Như nàng lấy hiếu làm trinh 3119 Bụi nào cho đục được mình ấy vay? 3120 Trời còn để có hôm nay 3121 Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời 3122 Hoa tàn mà lại thêm tươi 3123 Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa 3124 Có điều chi nữa mà ngờ 3125 Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu! 3126 Nghe chàng nói đã hết điều 3127 Hai thân thì cũng quyết theo một bài 3128 Hết lời khôn lẽ chối lời 3129 Gót đầu nàng những ngắn dài thở than. 3130 53 – Thành Hôn – Kiều Đàn Lần Cuối Nhà vừa mở tiệc đoàn viên 3131 Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là 3132 Cùng nhau giao lạy một nhà 3133 Lễ đà đủ lễ đôi là xứng đôi 3134 Động phòng dìu dặt chén mồi 3135 Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa 3136 Những từ sen ngó đào tơ 3137 Mười lăm năm mới bây giờ là đây! 3138 Tình duyên ấy hợp tan này 3139 Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao 3140 Canh khuya bức gấm rủ thao 3141 Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân 3142 Tình nhân lại gặp tình nhân 3143 Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình! 3144 Nàng rằng “Phận thiếp đã đành 3145 Có làm chi nữa cái mình bỏ đi! 3146 Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi 3147 Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may 3148 Riêng lòng đã thẹn lắm thay 3149 Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi 3150 Những là âu yếm vành ngoài 3151 Còn toan mở mặt với người cho qua 3152 Lại như những thói người ta 3153 Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa 3154 Khéo là giở nhuốc bày trò 3155 Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi! 3156 Người yêu ta xấu với người 3157 Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau! 3158 Cửa nhà dù tính về sau 3159 Thì còn em đó lọ cầu chị đây! 3160 Chữ trinh còn một chút này 3161 Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan 3162 Còn nhiều ân ái chan chan 3163 Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi?” 3164 Chàng rằng “Gắn bó một lời 3165 Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau 3166 Xót người lưu lạc bấy lâu 3167 Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều! 3168 Thương nhau sinh tử đã liều 3169 Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình 3170 Chừng xuân tơ liễu còn xanh 3171 Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân 3172 Gương trong chẳng chút bụi trần 3173 Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm! 3174 Bấy lâu đáy bể mò kim 3175 Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa 3176 Ai ngờ lại họp một nhà 3177 Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!” 3178 Nghe lời sửa áo cài trâm 3179 Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng 3180 Thân tàn gạn đục khơi trong 3181 Là nhờ quân tử khác lòng người ta 3182 Mấy lời tâm phúc ruột rà 3183 Tương tri dường ấy mới là tương tri 3184 Chở che đùm bọc thiếu gì 3185 Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay! 3186 Thoắt thôi tay lại cầm tay 3187 Càng yêu vì nết càng say vì tình 3188 Thêm nến giá nối hương bình 3189 Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan 3190 Tình xưa lai láng khôn hàn 3191 Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa 3192 Nàng rằng “Vì mấy đường tơ 3193 Lầm người cho đến bây giờ mới thôi 3194 Ăn năn thì sự đã rồi 3195 Nể lòng người cũ vâng lời một phen” 3196 Phim đàn dìu dặt tay tiên 3197 Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa 3198 Khúc đâu đầm ấm dương hòa 3199 Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh? 3200 Khúc đâu êm ái xuân tình 3201 Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? 3202 Trong sao châu nhỏ duềnh quyên 3203 Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông! 3204 Lọt tai nghe suốt năm cung 3205 Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao 3206 Chàng rằng “Phổ ấy tay nào 3207 Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy? 3208 Tẻ vui bởi tại lòng này 3209 Hay là khổ tận đến ngày cam lai? 3210 Nàng rằng “Vì chút nghề chơi 3211 Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu! 3212 Một phen tri kỷ cùng nhau 3213 Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa”. 3214 54 – Một Nhà Phước Lộc Gồm Hai Chuyện trò chưa cạn tóc tơ 3215 Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông 3216 Tình riêng chàng lại nói cùng 3217 Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao 3218 Cho hay thục nữ chí cao 3219 Phải người sớm mận tối đào như ai? 3220 Hai tình vẹn vẻ hòa hai 3221 Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ 3222 Khi chén rượu khi cuộc cờ 3223 Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên 3224 Ba sinh đã phỉ mười nguyền 3225 Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy 3226 Nhớ lời lập một am mây 3227 Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên 3228 Đến nơi đóng cửa cài then 3229 Rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà 3230 Sư đà hái thuốc phương xa 3231 Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu? 3232 Nặng vì chút nghĩa xưa sau 3233 Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai 3234 Một nhà phúc lộc gồm hai 3235 Thiên niên dằng dặc quan giai lần lần 3236 Thừa gia chẳng hết nàng Vân 3237 Một cây cù mộc một sân quế hòe 3238 Phong lưu phú quý ai bì 3239 Vầy xuân một cửa để bia muôn đời. 3240 55 – Kết Chữ Tâm – Chữ Tài Ngẫm hay muôn sự tại trời 3241 Trời kia đã bắt làm người có thân 3242 Bắt phong trần phải phong trần 3243 Cho thanh cao mới được phần thanh cao 3244 Có đâu thiên vị người nào 3245 Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai 3246 Có tài mà cậy chi tài 3247 Chữ tài liền với chữ tai một vần 3248 Đã mang lấy nghiệp vào thân 3249 Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa 3250 Thiện căn ở tại lòng ta 3251 Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài 3252 Lời quê chắp nhặt dông dài 3253 Mua vui cũng được một vài trống canh. 3254 Nguyễn Du Tài Liệu Tham Khảo Truyện Kiều – 1866 – Bản Liễu Văn ường – Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, khảo dị Truyện Kiều – 1870 – Bản Kinh đời Tự ức – Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, khảo dị Truyện Kiều – 1871 – Bản Liễu Văn ường – Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, khảo dị Truyện Kiều – 1872 – Bản Duy Minh Thị – Nguyễn Tài Cẩn Truyện Kiều – 1902 – Bản Kiều Oánh Mậu – Nguyễn Thế & Phan Anh Dũng Truyện Kiều Chú Giải – 1953 – Lê Văn Hòe Truyện Kiều – 2004 – Phạm Đan Quế Truyện Kiều – 2017 – Hội Kiều Học Việt Nam – Ấn bản kỷ niệm 250 năm năm sinh đại thi hào Nguyễn Du Danh ngôn hay – Những câu danh ngôn hay nhất mọi thời đại về cuộc sống, tình yêu, tình bạn..Những câu danh ngôn ngắn gọn mà ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống của mỗi người. Tháng Ba 13, 2011 at 209 chiều Nguyễn Du 1765- 1820 là Đại thi hào dân tộc. Truyện Kiều là kiệt tác văn chương bất hủ của mọi thời đại. Cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều qua thể hiện tài tình của Nguyễn Du đã làm rơi bao nước mắt của lớp lớp thế hệ người Việt. Thơ viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều xưa nay rất nhiều, nếu sưu tập lại sẽ thành một cuốn sách dày. Ở đây chỉ chọn một số bài tiêu biểu. Có thể mỗi người có sự lựa chọn khác nhau. Đây chỉ là sự lựa chọn chủ quan của cá nhân. Trong một số bài thơ có tả phần mộ Nguyễn Du “sè sè nắm đất bên đường” như mộ Đạm Tiên. Đó là do các tác giả đến thăm khi khu mộ chưa được tôn tạo. Chính tôi PDK cũng đã từng đến thăm mộ Nguyễn Du vào năm 1963 và thấy cảnh hiện ra trước mắt đúng như vậy xin xem “Một chuyến tham quan đặc biệt” . Lăng mộ Nguyễn Du mới được tôn tạo vào năm 1989 . Sau đây là một số bài thơ về Nguyễn Du và Truyện Kiều do Phan Duy Kha sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu . * ĐỀ TỪ CỦA PHẠM QUÝ THÍCH Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường Bán thế yên hoa trái vị thường Ngọc diện khởi ưng mai thủy quốc Băng tâm tự khả đối Kim Lang Đoạn trường mộng lý căn nguyên liễu Bạc mệnh cầm chung oán hận trường Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy Tân thanh đáo để vị thùy thương . Bản dịch của Phạm Quý Thích Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan Yên hoa bao trắng nợ hồng nhan Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng Vẻ ngọc chưa phai chốn thủy quan Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp Một dây bạc mệnh dứt cầm loan Cho hay những kẻ tài tình lắm Trời bắt làm gương để thế gian. Bản dịch của Lê Thước Hồng nhan ví chẳng đến Tiền Đường Nửa kiếp yên hoa nợ vẫn mang Mặt ngọc dễ hầu vùi đáy nước Tiết băng không thẹn dối lòng chàng Đoạn trường tỉnh giấc nguồn cơn rõ Bạc mệnh đàn xong mối hận vương Một mảnh tài tình thiên cổ lụy Tân thanh đau xót tỏ tình thương . Bản dịch của Phan Duy Kha Người đẹp ví không đến Tiền Đường Nửa đời chưa trả nợ còn vương Mặt ngọc há đành vùi đáy nước Tiết băng đâu thẹn gặp Kim Lang Mộng tỉnh “đoạn trường” nguồn cơn tỏ Đàn xong “bạc mệnh” hận còn mang Một mảnh tài tình muôn thuở lụy Tân Thanh này để tỏ đau thương * TỔNG VỊNH NÀNG KIỀU Kiều nhi giấc mộng bặt như cười Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi Số kiếp bởi đâu mà lận đận Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi Cành thoa vườn Thúy duyên còn bén Ngọn nước sông Tiền nợ chửa xuôi Không trách chàng Kim đeo đẳng mãi Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi . KIỀU BÁN MÌNH Thằng bán tơ kia dở dói ra Làm cho bận đến cụ Viên già Muốn êm phải biện ba trăm lạng Khéo xếp nên liều một chiếc thoa Đón khách mượn màu son phấn mụ Bán mình chuộc lấy tội tình cha Có tiền việc ấy mà xong nhỉ Ngày trước làm quan cũng thế a ? Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến có 4 bài, ở đây chỉ chọn 2 * TỔNG VỊNH TRUYỆN KIỀU Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương Sắc tài chi lắm để làm gương. Công cha bao quản liều thân thiếp Việc nước xui nên phụ nghĩa chàng. Cung oán nỉ non đàn bạc mệnh Duyên may run rủi lưới Tiền Đường Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng. BÀI THƠ ĐẦU TRUYỆN KIỀU 1 Trời sá ghen đâu khách má hồng Đoạn trường nợ lắm phải đền xong, Hiếu tình chất nặng đôi vai gánh, Thân thế xoay quanh một giấc mòng, Giọt nước sông Tiền oan dễ trắng Ngắm trăng hiên Thúy vẻ còn trong. Một thiên chép để làm gương lại Trời sá ghen đâu khách má hồng. 2 Chẳng lọ than thân, lọ trách trời Má đào ai có khác chi ai. Tiền đường ví hẳn nay đành kiếp, Kim Trọng vì đâu trước nặng lời ? Khi biến, khi thường nào phải một Chữ tài, chữ mệnh dễ hòa hai. Mười lăm năm ấy gương nghìn thuở, Ả Lý, nàng Oanh được mấy người ? Chu Mạnh Trinh Chu Mạnh Trinh có 20 hồi vịnh Kiềuvà 1 bài Tổng vịnh, ở đây chỉ chọn 3 bài * VỊNH KIỀU Tiếng trống biên đình bốn phía ran Tướng quân chi tiếc cái hoa tàn Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan Tổng đốc ví thương người bạc phận Tiền Đường đâu đã mả hồng nhan Bơ vơ nấm đất ven sông đó Hồn có nghe chăng một tiếng đàn . Tản Đà * MỐI TÌNH ĐẦU Gọi đời là ” Cõi người ta” Sao nghe thấm thía xót xa nỗi mình? Tố Như ơi, lụy và tình Nghìn xưa như bóng với hình y nguyên Tình Kiều nếu bén duyên Kim Thủy chung vẫn tiếng con chim gọi lòng Một đời trải mấy long đong Tha hương vẫn giọt máu hồng cố hương! Dù cho người khách viễn phương Gươm vàng nửa gánh , biên cương một trời Uy danh lệch đất nghiêng trời Vẫn vầng trăng ngọc, vẫn lời thề xưa. . . Tiền Đường rửa hết oan thơ Mười lăm năm ấy bây giờ là đây Tờ hoa đó, tóc mây này Vẫn nguyên hương sắc như ngày yêu nhau ! Hồ Dzếnh * CẢM ĐỀ ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH Oan nghiệt khư khư buộc lấy mình Xót cho tài sắc lại đa tình. Gió mưa năm ngón, hai hàng lệ, Cát bụi mười phương một chữ trinh. Giữa cuộc bao phen liều nhắm mắt, Trong mưa nửa kiếp đã in hình, Đoạn trường tiếng ấy nghìn thu mới, Trang cảo thơm còn dấu hiển linh. 2 Trăng xế hoa gần, đêm tịch liêu, Sử phong tình ngát, sóng tình xiêu Văn Hà Tĩnh, truyện đời Gia Tĩnh. Nhớ Át Kiều, thương nghiệp Thúy Kiều Hòn đá ba sinh lăn lóc mãi Tấm lòng thiên cổ vấn vương nhiều. Mua vui cũng được . . .ai người khóc Hoài cảm riêng mình thử nối điêu. Vũ Hoàng Chương Vũ Hoàng Chương có 5 bài vịnh Kiều, ở đây chỉ chọn 2 bài * KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều Hỡi lòng tê tái thương yêu Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh Ngổn ngang bên nghĩa, bên tình Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao ? Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường ! Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng Nhân tình, nhắm mắt, chưa xong Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như ? Mai sau dù có bao giờ Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay . Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng người Trải bao gió dập sóng dồi Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha Đau đớn thay phận đàn bà Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân ! Ngẫm xem qua kiếp phong trần Đời vui nay đã nửa phần vui đây Song còn bao nỗi chua cay Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh Cũng loài hổ báo ruồi xanh Cũng phường gian ác hôi tanh hại người ! Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghìn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày Hỡi người xưa của ta nay Khúc vui xin lại so dây cùng người ! Sông Lam nước chảy bên đồi Bỗng nghe trống dục ba hồi gọi quân. . . Tố Hữu * THĂM MỘ CỤ NGUYỄN DU Thật kỳ lạ nơi Nguyễn Du nằm đó Cũng cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia Cũng nấm mộ sè sè ngọn cỏ Trong trang Kiều tôi đọc dưới đèn khuya. Không phải tiết sụt sùi tháng bảy Ánh chiều hè man mác hàng dương Đỉnh Hồng Lĩnh soi dòng Lam cuộn chảy Tiếng cuốc cào lách cách giữa đồng nương. Tìm mộ Nguyễn Du như Kim Trọng tìm Kiều Qua nhịp cầu ai đó ghé trông theo Giữa khoai lúa người nằm giản dị Phảng phất hương bay trong gió chiều. Tiếng người hát xưa thấm đầy nước mắt Thấm vị đời cay đắng khổ đau . Hai thế kỷ đi qua trên nấm đất Mấy kiếp người, mấy cuộc bể dâu. Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước Giở trang Kiều còn rung động ý thơ. Thơ Người mãi sống cùng đất nước Dù mai sau dù có bao giờ. . . Hoàng Trung Thông * BÊN MỘ CỤ NGUYỄN DU Tưởng là phận bạc Đạm Tiên Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây Ngẩng trời cao, cúi đất dày Cắn môi, tay nắm bàn tay của mình Một vùng cồn bãi trống chênh Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề Hút tầm chẳng cánh hoa lê Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non Xạc xào lá cỏ héo hon Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi Lặng yên bên nấm mộ rồi Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm. Không cành để gọi tiếng chim Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời Không vầng cỏ ấm tay người Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu Thanh minh trong những câu Kiều Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân. Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân Phong trần còn để phong trần riêng ai Bao giờ cây súng rời vai Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên 1 Trái tim lớn giữa thiên nhiên Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa. . . 1982 Vương Trọng 1 Bài thơ này làm năm 1982, mãi đến năm 1989 lăng mộ Nguyễn Du mới được xây dựng như mong muốn của tác giả. * NGOẢNH MẶT GIANG ĐÌNH Rặng bần áp bến đò ngang Để sông Lam chẳng lẫn sang sông Tần Đỉnh Hồng gấp cánh phù vân Chín mươi chín ngọn in ngần trời quê Bên sông buổi ấy người về Mon men tùng cúc thu kề ngoài song Giang Đình 1 kề mảnh trăng trong Tiếng chày ánh lửa động lòng cố hương Vớt lên khói sóng Tiền Đường Trăm năm này cõi vô thường người ta Bụi hồng bạc xóa lau xa Tiếng Kiều đồng vọng cỏ hoa cúi đầu Sông in núi chẳng thay màu Ngả dài điệu sóng thuyền câu bập bềnh Giang Đình ngày rộng thênh thênh Cánh buồm xa thoắt qua ghềnh triều lên Cỏ thơm Vạt áo Tiên Điền Thi nhân chừng mới như biền biệt đây Chiều tà buộc nắng lưng cây Biết đâu mây trắng còn ngây lối về. . . Phạm Trọng Thanh 1 Giang Đình là một bến đò cổ ở quê hương Nguyễn Du, nơi Nguyễn Du có làm bài thơ ghi lại việc đón thân phụ là Nguyễn Nghiễm về quê. Giang Đình là một trong Nghi Xuân bát cảnh Giang Đình cổ độ. * VIẾNG MỘ NGUYỄN DU Thắp hương cúi xuống lạy người Nắng nung mặt đất nghe trời quặn đau Gợi lên một ngọn dầu hao Mắt rung bóng ngựa, nao nao vó chiều Đường chôn dấu bước Thúy Kiều Hiu hiu hương nắng, tím đèo mây trôi Ra về dặm nhớ xa xôi Cỏ non ở lại, riêng tôi dặm buồn. Nghi Xuân, 1988 Hải Bằng * NHỚ TỐ NHƯ Mấy trăm năm đã qua rồi Gò đất nấm mộ của Người còn đây Ngay bên vạt ruộng đang cày Gốc cây buộc ngựa thì nay chẳng còn Nhưng không mất được lối mòn Đẹp như sợi chỉ để con tìm về Cái thời rất khó khen chê Vua thì hại gái vừa mê đàn bà Cái thời có một bông hoa Như sinh ra chỉ để mà vô duyên Cái thời có một người em Đưa mình thế chị ở trên đời này Cái thời ngẫm lạ lùng thay Những người chân thật lại hay tội tình Những người biết phải làm thinh Còn đâu như ở nước mình nữa không Nhà thơ đứt ruột, đứt lòng Phải đi mượn chuyện bên sông nước người Chuyện xa xưa, chuyện cũ rồi Để mà nói những buồn vui nước mình. . . Càng khi đất nước thanh bình Thơ Người càng được chúng sinh nhắc nhiều Nước non có một Truyện Kiều Bao nhiêu lần đọc, bấy nhiêu lần buồn Đã đành thuở ấy nước non Nhân tình thế thái chẳng còn ra chi Dân nghèo và nước đang suy Cô Kiều cực nhục có gì lạ đâu. . . Thế mà trong cuộc bể dâu Người xem vương miện trên đầu như không Truyện Kiều con đọc đã xong Gần ba thế kỷ, đọc trong một chiều Người ơi, Người viết Truyện Kiều Về xem đất nước quá nhiều đổi thay. . . 1994 Phạm Việt Thư * VIẾNG CỤ NGUYỄN DU Bên mồ thi sĩ lệ tuôn rơi Hậu thế tìm đâu để có người Thương phận má đào cơn gió dập Xót đời mệnh bạc cánh bèo trôi Ghê phường trục lợi tài xu thế Gớm lũ tham danh giỏi nịnh thời Tam bách niên dư thiên hạ phục Trước mồ thi sĩ lệ tuôn rơi . 1993 Phan Mạnh * ĐỌC LẠI NGUYỄN DU Quá khuya – chợt thấy mình già Nhìn ra cửa sổ, mưa sa kín trời Một đời gọi mãi , người ơi! Một đời khát vọng , một đời bồng bênh Mê say là chuyện đã đành Biết đâu tỉnh lại, nhân tình trắng phau! Áo cơm se sắt mái đầu Thương nhau mà giận, ngó nhau mà buồn! . Rạc rài chút phận văn chương Cao sang nhòe lẫn tầm thường, ngẩn ngơ. . . Bằng Việt * THĂM NHÀ THỜ CỤ NGUYỄN DU Mù sương chầm chậm sông Lam Heo heo vàng lá nhuốm hàng tre quê Cánh cò rời rã chân đê, Khí thu mờ mịt vọng về hồn xưa Bút nghiên khóc những vần thơ “Một thiên bạc mệnh” đến giờ còn đau Cuộc đời bãi bể nương dâu Đìu hiu mặt nước, phau phau sóng cồn “Đoạn trường” càng ngẫm càng thương Run run thắp một nén hương dâng người Trăm năm mua một tiếng cười Ngàn năm sau vẫn khóc người đời xưa Nghẹn ngào thành kính câu thơ Nỗi đau xưa đến bây giờ. . . còn đau! Phạm Xuân Trường * TÂM SỰ NÀNG THÚY VÂN Nghĩ thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim Ơ kìa! Sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thề thắt một vòng oan khiên Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị thương kẻ khuất, đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu! Là em nói vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường Chị nhiều hờn giận, yêu thương Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nối khát khao Kiều ơi, em biết khi nào được yêu! Trương Nam Hương Entry filed under Uncategorized. Nguyễn Du là một tài năng thế kỷ của văn chương, ông đã tự kiến tạo nên thế giới nghệ thuật riêng trong các tác phẩm của mình, bằng sự tài hoa và tấm lòng nhân đạo, đại thi hào đã để lại cho hậu thế vô vàn những thi phẩm trác tuyệt. Sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, cuộc đời Nguyễn Du đi qua không biết bao nhiêu sóng gió nhưng chính nhờ những truân chuyên ấy đã hun đúc nên một tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn và tạo ra kiệt tác Truyện Kiều danh lưu bốn phía, tiếng truyền muôn đời. Nguyễn Du và tuổi thơ đầy mất mát đau thương trong gia đình quyền quý Đại thi hào tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên sinh năm Ất Dậu tại làng Tiên Đình, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình quý tộc nhiều đời làm quan lớn dưới triều vua Lê – chúa Trịnh và có truyền thống yêu thích văn chương, sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Du đã khởi nguồn từ truyền thống gia đình. Nguyễn Du là viên ngọc quý của văn đàn việt Nam Thuở nhỏ, cha của ông là Nguyễn Nghiễm đã làm quan đến chức quan tể tướng, trong lần cùng Hoàng Nguyễn Phúc dẫn quân đi đánh chúa Nguyễn ở đàng Trong đã lâm vào trận bạo bệnh và từ trần trong lúc dưỡng thương ở quê nhà, khi ấy Nguyễn Du vừa lên chín tuổi. Đến năm mười hai tuổi, thân mẫu của ông là bà Trần Thị Tần cũng qua đời, Nguyễn Du từ thuở nhỏ đã chịu cảnh mồ côi cha mẹ và phải sống chung với người anh khác mẹ hơn ông 31 tuổi là Nguyễn Khản, đương là trấn thủ Sơn Tây. Sau đó không lâu, anh của Nguyễn Du bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý và phải chịu giam cầm ở nhà Châu quận công, ông được người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tấn nhận nuôi và đến ở tại Sơn Nam Hạ. Tuổi thơ của Nguyễn Du hầu như đều gắn liền với mất mát và đau thương, phải chứng kiến quá nhiều sự li biệt và cái chết của người thân đã phần nào ảnh hưởng sâu sắc đến ông cũng như đời thơ sau này. Mười năm gió bụi đã tạc nên một đời văn vĩ đại Được Đoàn Nguyễn Tấn nuôi ăn học, Nguyễn Du đã đỗ Tú tài trong kì thi Hương ở Sơn Nam năm Quý Mão rồi lấy Đoàn Thị Huệ, con gái quan Ngự Sử Đoàn Nguyễn Thục làm vợ và mở ra những năm tháng lưu lạc đầy sóng gió nơi đất Bắc. Mười năm gió bụi đã hun đúc nên một tài năng thế kỷ Nguyễn Du gọi mười năm đó là thập tải phong trần mười năm gió bụi, chính những năm tháng này đã làm nên tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn của nhà thơ để đến muôn đời sau khi đọc lại những áng thơ của đại thi hào, người ta vẫn luôn cảm nhận được như có máu nhỏ trên ngọn bút, nước mắt sa trên tờ giấy. Sống trong cảnh lang bạt nơi xứ lạ trong hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, Nguyễn Du cũng từng nhiều lần trầm mặc chua xót cho cuộc đời chính mình chưa làm nên công danh đã rơi vào ngõ cụt và thầm xót xa cho thảm kịch mà gia đình ông phải gánh chịu. “Mười năm trọn quê người nấn ná Nương quê người tóc đã điểm sương.” – U cư Trong mười năm lưu lạc ở quê vợ ấy, Nguyễn Du sống gần gũi với nhân dân và thấm thía bao nỗi cơ cực mà tầng lớp bình dân thấp cổ bé họng phải chịu đựng thời bấy giờ. Ông thấu cảm cho bao nỗi ấm lạnh của nhiều mảnh đời bất hạnh và chính những nỗi niềm ấy đã để lại trong tâm hồn đại thi hào những luồng sáng quý giá của tư tưởng sâu sắc. Về sau, nhờ mười năm gió bụi này mà Nguyễn Du đã cho ra đời không ít danh tác cảm động lòng người như Long thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh ký hay Văn tế thập đại chúng sinh. Tấm lòng cao cả của Nguyễn Du đã làm nên những kiệt tác để đời Mỗi tác phẩm của ông đều hướng về một thân phận bất hạnh nào đó, chính những nỗi thấu cảm mà đại thi hào dành cho con người đã hun đúc nên một tài năng của thế kỷ. Nỗi trăn trở lớn nhất của đại thi hào Ở thi phẩm Độc Tiểu Thanh ký, sau nỗi thấu cảm mà Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh, người phụ nữ tài sắc nhưng bạc mệnh sống cách ông ba thế kỷ dưới thời nhà Minh, đại thi hào đã tự vấn lòng mình rằng liệu sau ba trăm năm lẻ nữa liệu người đời có ai sẽ nhớ và thương cho nỗi đau của Nguyễn Du như ông đã từng thương cho Tiểu Thanh hay không. “Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như.” – Độc Tiểu Thanh ký Sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, cuộc đời Nguyễn Du đi qua không biết bao thương hải tang điền nhưng đâu mới thực sự là nỗi đau lớn nhất cuộc đời ông? Đó là đau thương khi gặp cảnh gia đình ly tán, nỗi cảm thông day dứt với những kiếp người bất hạnh không chốn dung thân hay điều gì khác đã khiến đại thi hào phải trăn trở cả đời vẫn là một ẩn số ít ai biết đến. Người xưa quan niệm Tôi trung không thờ hai chúa, một quan thần trung quân ái quốc sẽ không thờ hai vua nhưng Nguyễn Du lại làm quan hai triều, trước là quan dưới nhà Lê, sau là quan của nhà Nguyễn. Thể xác Nguyễn Du nằm lại với đất nhưng linh hồn ông vẫn sống mãi trong lòng người Dù ở triều đại nào ông cũng làm quan lớn và cống hiến rất nhiều cho nước nhà nhưng điều này vẫn luôn là nỗi trăn trở day dứt trong lòng Nguyễn Du, đó là một niềm đau với chí làm trai của người nam nhi lúc đương thời. Gia tộc của ông cả sáu đời đều làm quan dưới triều vua Lê – chúa Trịnh, cha Nguyễn Du từng phò chúa Trịnh Doãn lên ngôi và mang quân đánh dẹp đất Bắc, với những chiến công hiển hách trải dài gần nghìn năm ấy của dòng tộc họ Nguyễn, dân gian đã lưu truyền lại bằng đôi câu thơ “Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước, nhà này hết quan.” Tuy nhiên, Ngàn Hống cây vẫn xanh, sông Rum nước vẫn chảy mà nhà họ Nguyễn đã đến ngày suy vong, Nguyễn Du sức hèn không làm nên chuyện lớn cứ thế nhìn gia tộc sụp đổ và từng người thân ngã xuống trong thảm kịch của chiến tranh. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi lập nên nhà Tây Sơn, ông đã có ý định chiêu mộ nhân tài nhà Lê về làm quan với mục đích hàn gắn những nứt vỡ của hai miền từ trăm năm nay. Tuy nhiên xã hội đương đời đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của Nho Giáo, vì thế những người tài của nhà Lê hoặc lui về ở ẩn hoặc liều mình trung hưng triều xưa. Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều lưu danh thiên cổ Đối với Nguyễn Du, ông lựa chọn cách đầu tiên, không màng thế sự khói lửa và cuộc đua tranh của những thế lực phong kiến, nhà thơ lui về ở ẩn và phó mặc cho số phận chỉ định tương lai đời mình. “Cũng liều nhắm mắt đưa chân Để xem con tạo xoay vần đến đâu.” – Truyện Kiều Tuy nhiên, cuối cùng nhân tài như Nguyễn Du cũng không thoát khỏi tầm mắt của Gia Long Nguyễn Ánh, nhà vua từng nhiều lần cho người mời ông về làm quan song đều bị từ chối, tuy nhiên không vì thế nhà Nguyễn mất đi kiên nhẫn, chỉ khi Nguyễn Du chấp nhận thì Gia Long mới cho dừng việc chiêu mộ. Dưới triều nhà Nguyễn, đại thi hào thăng quan tiến chức nhanh như diều gặp gió và từng nhiều lần được cử đi sứ sang nhà Thanh song trong lòng Nguyễn Du vẫn luôn chấp niệm nhà Lê và sáu đời quan huy hoàng của gia tộc mình. Chính điều này đã trở thành nỗi day dứt đeo bám ông suốt cuộc đời, cũng vì vậy mà khiến cho vua Nguyễn không hoàn toàn tin tưởng Nguyễn Du hay nói đúng hơn là Gia Long chưa bao giờ tín nhiệm tuyệt đối với các sĩ phu Bắc Hà vẫn luôn sục sôi trong lòng ý niệm trung hưng triều cũ. Đại thi hào Nguyễn Du và cuộc đời lắm nỗi truân chuyên sóng gió Dù trong lòng luôn chấp nhất với triều Lê nhưng Nguyễn Du vẫn hoàn thành đúng sứ mệnh của một quân thần nhà Nguyễn, tên tuổi của ông gắn liền với vô số công lao hiển hách đã giúp cho nước nhà này một phát triển. Ngoài tài văn chương thi phú thì những cống hiến cũng là điểm sáng nổi bật giúp Nguyễn Du trở thành Danh nhân văn hóa thế giới. Vì luôn sống với nỗi trăn trở khôn nguôi không người giãi bày ấy mà Nguyễn Du chưa bao giờ ngừng hy vọng sẽ có người hiểu ông, hậu thế ba trăm năm sau sẽ thấu cảm cho kiếp người tài hoa của Nguyễn Du như đại thi hào đã từng cảm thông cho Tiểu Thanh. Không cần đến ba thế kỷ sau cũng đã có rất nhiều thi sĩ hiện đại nói riêng và nhân dân nói chung thương xót ông, họ luôn thấu cảm cho kiếp người tài hoa nhưng lại bị trời xanh lưu đày đến cùng đường tuyệt lộ và phải chịu những nỗi đau không ai hiểu thấu. “Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.” – Tố Hữu Nguyễn Du là người tài nhưng lại phải sống cả đời trong đau thương do những số phận mang lại, chính vì vậy mà tài hoa bạc mệnh đã trở thành đề tài chủ chốt trong thi ca của ông, đại thi hào thương người và cũng tự thương cho chính cuộc đời mình. Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều lưu danh thiên cổ Gắn liền với tên tuổi của đại thi hào lúc đương thời là danh tác Đoạn Trường Tân Thanh, đó là tiếng kêu thanh tân về một nỗi đau xé lòng của những phận người bạc mệnh còn vang vọng đến hậu thế trăm năm sau dưới cái tên Truyện Kiều. Nguyễn Du được công nhận là danh nhân văn hóa thế giời Tác phẩm bằng giá trị nhân văn sâu sắc đã vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và trở thành bản trường ca đi cùng năm tháng, đến thời điểm hiện tại, Truyện Kiều vẫn neo đậu vững chắc trong lòng hàng triệu người độc bởi sức sống mãnh liệt lay động hồn người. Mặc dù vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh nội dung của tác phẩm song khi bàn về nghệ thuật của Truyện Kiều, không ai có thể đưa ra lời chê trách nào bởi những thủ pháp, ngôn ngữ và giọng điệu mà Nguyễn Du sử dụng trong thi phẩm đã đạt đến trình độ mà hầu như không ai với tới. “Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung”. – Hoài Thanh Kiệt tác Truyện Kiều là ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt Nam, không chỉ ở nội dung nhân đạo mà còn là nghệ thuật đỉnh cao không tài năng nào đuổi kịp. Nguyễn Du là ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt nam Thi phẩm là tấm gương lớn đặt giữa xã hội đương thời để người đọc soi vào đó mà thấy được một xã hội suy đồi về đạo đức, hủ lậu trong nhân tính và đồng tiền xoay tròn trên lương tâm con người như thế nào, cũng chính từ sự suy thoái ấy mà biết bao phận người đã bị đẩy vào cùng đường tuyệt lộ. Truyện Kiều là một tiếng kêu than, một ước mơ về công lý và cũng là một cái nhìn bế tắc mà Nguyễn Du giành cho số phận của những nhân vật trong truyện cũng như cho chính cuộc đời mình. Ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng để lại cho đời sau không ít tác phẩm hay, điển hình như các tập thơ cả chữ Hán lẫn Nôm là Thanh Hiên thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam Trung tạp ngâm và rất nhiều thi phẩm khác. Tài năng của Nguyễn Du đã tạc vào lòng thế kỷ văn chương một dấu ấn không bao giờ phai nhạt, bằng tấm lòng nhân đạo cao cả và sự tài hoa của mình, đại thi hào đã đưa đất nước hóa thành văn. Diệu Uyển

câu thơ về nguyễn du